ThS. Nguyễn Huỳnh Đăng Khoa

International Hospital Doctor Khoa, Ho Chi Minh City, Vietnam

Tóm tắt

Thực hiện tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có các bệnh viện là xu thế tất yếu đã được Đảng, Nhà nước cụ thể hóa trong nhiều chủ trương, chính sách ban hành thời gian qua. Bài viết khái quát chính sách pháp luật cũng như phân tích thực trạng trong vấn đề tự chủ ở các bệnh viện công lập (BVCL) hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thực hiện tự chủ tại các BVCL trong thời gian tới.

Từ khóa: quản lý tài chính, tự chủ ngân sách, bảo hiểm y tế, bệnh viện công lập

Summary

Implementing autonomy for public service units, including hospitals, is an inevitable trend that the Party and the State have concretized in many recently issued guidelines and policies. This article summarizes legal policies and analyzes the current situation of autonomy in public hospitals. On that basis, the author proposes some solutions to enhance the implementation of autonomy at public hospitals in the coming time.

Keywords: financial management, budget autonomy, health insurance, public hospitals

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong những năm qua, Nhà nước ta đã và đang từng bước chuyển đổi nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ trương thực hiện xã hội hóa dịch vụ công. Từ Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, ngày 25/4/2006, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, ngày 14/02/2015 và sau đó là Nghị định số 60/2021/NĐ-CP, ngày 21/6/2021 lần lượt được ban hành, đã quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Theo đó, các đơn vị sự nghiệp cũng đang từng bước chuyển sang hoạt động theo cơ chế tự chủ. Việc giao quyền tự chủ về tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu là đúng hướng, phù hợp với tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước, giảm bớt trợ cấp kinh phí cho hoạt động từ ngân sách nhà nước (NSNN), nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị, nâng cao chất lượng phục vụ, cung cấp dịch vụ ngày càng nhiều và phong phú, đa dạng cho xã hội, thu nhập của người lao động đã từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những khó khăn, thách thức trong thực hiện cơ chế tự chủ liên quan đến việc phân bổ ngân sách chi thường xuyên, các chính sách viện phí, giá dịch vụ… cũng như đảm bảo và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của bệnh viện. Thực tiễn đó đặt ra những thách thức cho các BVCL đang trong quá trình tiến tới quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp về quản lý tài chính BVCL theo cơ chế tự chủ là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ Ở CÁC BỆNH VIỆN CÔNG LẬP HIỆN NAY

Từ năm 2006 cho đến nay, cơ chế tài chính tự chủ cho các BVCL được điều chỉnh qua nhiều nghị định, văn bản. Trước tiên là Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; Thông tư số 71/2006/TT-BTC, ngày 09/8/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định trên.

Sau gần 10 năm thực hiện, qua tổng kết đánh giá việc thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP bên cạnh kết quả đạt được cũng có những bất cập phát sinh, do vậy đến năm 2012, Chính phủ ban hành thêm Nghị định số 85/2012/NĐCP, ngày 15/10/2012 của Chính phủ về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các BVCL và giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập được ban hành. Sau đó, đến năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị nghiệp công lập, thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP. Đến năm 2021, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 60/2021/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập, để thay thế cho Nghị định số 16/2015/NĐ-CP. Nghị định số 60/2021/NĐ-CP đã thể hiện rõ mục tiêu đổi mới toàn diện các đơn vị sự nghiệp công lập; đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị đồng bộ cả về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính, quy định: cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công (trong đó có BVCL) là các quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính của đơn vị sự nghiệp công.

Đặc biệt, ngày 25/10/2017, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập và Nghị quyết số 20-NQ/TW về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, trong đó nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý và tổ chức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp y tế công lập. Đẩy mạnh thực hiện quyền tự chủ về nhiệm vụ chuyên môn, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính gắn với trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch”.

Đặc biệt, để tạo bước đột phá trong thực hiện cơ chế tự chủ đối với các BVCL, ngày 19/5/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 33/NQ-CP về thí điểm tự chủ tự chịu trách nhiệm toàn diện đối với 4 bệnh viện thuộc Bộ Y tế, gồm: Bạch Mai, Chợ Rẫy, K, Hữu nghị Việt Ðức.

Trong khi đó, cơ sở pháp lý cao nhất về vấn đề tự chủ ở các BVCL được quy định tại Điều 118 Luật Khám bệnh, chữa bệnh (năm 2023) (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2024) quy định về tự chủ đối với cơ sở khám chữa bệnh (KCB) của Nhà nước (bệnh viện công, trung tâm y tế của Nhà nước...) như sau:

(1) Cơ sở KCB của Nhà nước được Nhà nước bảo đảm kinh phí để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao; có trách nhiệm sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính theo quy định của pháp luật, phát huy tiềm năng, thế mạnh, nâng cao chất lượng KCB.

(2) Cơ sở KCB thực hiện tự chủ được tự chủ trong quyết định về tổ chức và nhân sự, thực hiện nhiệm vụ, phát triển các hoạt động chuyên môn, các hoạt động khác phục vụ KCB theo quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh (năm 2023) và quy định khác của pháp luật có liên quan.

(3) Cơ sở KCB thực hiện tự chủ về tài chính theo quy định của pháp luật và các nội dung sau:

- Quyết định nội dung thu, mức thu của các dịch vụ, hàng hóa liên quan đến hoạt động KCB, phục vụ người bệnh, thân nhân của người bệnh theo quy định của pháp luật, trừ dịch vụ, hàng hóa do Nhà nước định giá;

- Quyết định sử dụng nguồn thu hợp pháp để đầu tư các dự án thực hiện hoạt động KCB theo quy định của pháp luật;

- Quyết định nội dung chi và mức chi từ nguồn thu dịch vụ KCB và thu sự nghiệp, nguồn kinh phí đặt hàng theo quy chế chi tiêu nội bộ của cơ sở KCB phù hợp với quy định của pháp luật và khả năng tài chính của cơ sở;

- Quyết định sử dụng tài sản công theo quy định của pháp luật nhằm mục đích phát triển hoạt động KCB theo nguyên tắc bảo toàn, phát triển; tiếp nhận, quản lý, khai thác, sử dụng các tài sản do tổ chức, cá nhân cho, tặng trên nguyên tắc công khai, minh bạch và không ràng buộc lợi ích giữa các bên để phục vụ công tác KCB;

- Cơ sở KCB tự bảo đảm chi đầu tư và chi thường xuyên được quyết định giá dịch vụ KCB nhưng không vượt quá giá dịch vụ KCB tương ứng do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định, trừ giá dịch vụ KCB theo yêu cầu và giá dịch vụ KCB hình thành từ hoạt động hợp tác theo hình thức đối tác công tư thực hiện theo quy định tại khoản 7 và khoản 9 Điều 110 Luật Khám bệnh, chữa bệnh (năm 2023)

Bên cạnh đó, Điều 119 Luật Khám bệnh, chữa bệnh (năm 2023) quy định về xã hội hóa trong hoạt động KCB như sau:

- Tổ chức, gia đình và cá nhân có trách nhiệm tự chăm lo sức khỏe, phát hiện bệnh sớm cho thành viên trong tổ chức, gia đình và bản thân; tham gia cấp cứu, hỗ trợ giải quyết các trường hợp xảy ra tai nạn, thương tích tại cộng đồng và tham gia hoạt động KCB khi có sự huy động của cơ quan, người có thẩm quyền.

- Nhà nước thực hiện đa dạng hóa các loại hình dịch vụ KCB; tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng cơ sở KCB được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật về xã hội hóa, bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, bình đẳng, bền vững, hiệu quả, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư, người bệnh và cộng đồng; khuyến khích cơ sở KCB tư nhân hoạt động KCB nhân đạo, không vì mục đích lợi nhuận; khuyến khích thành lập quỹ hỗ trợ KCB.

- Hình thức thu hút nguồn lực xã hội trong hoạt động KCB bao gồm:

+ Đầu tư thành lập cơ sở KCB tư nhân;

+ Đầu tư theo phương thức đối tác công tư để thành lập cơ sở KCB;

+ Vay vốn để đầu tư công trình hạ tầng, thiết bị y tế;

+ Thuê, cho thuê tài sản, dịch vụ lâm sàng, dịch vụ cận lâm sàng, dịch vụ phi y tế, dịch vụ nhà thuốc, quản lý vận hành cơ sở KCB;

+ Mua trả chậm, trả dần; thuê, mượn thiết bị y tế;

+ Tài trợ, viện trợ từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài;

+ Hình thức khác theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công và quy định khác của pháp luật có liên quan.

- Việc thực hiện thu hút nguồn lực xã hội trong hoạt động KCB đối với cơ sở KCB của Nhà nước được thực hiện theo quy định của pháp luật.

THỰC TRẠNG TỰ CHỦ Ở CÁC BỆNH VIỆN CÔNG LẬP HIỆN NAY

Kết quả đạt được

Theo Báo cáo của Chính phủ (2022) gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội liên quan việc tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi), đến năm 2022, 100% số đơn vị sự nghiệp y tế công lập đã được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo các nhóm, trong đó có 253 đơn vị đã tự chủ toàn bộ chi thường xuyên.

Thực tế cho thấy, hình thức tự chủ ra đời đã giúp các bệnh viện chủ động hơn trong sử dụng các nguồn tài chính, có quyền điều tiết các khoản thu chi hiệu quả, tăng huy động vốn và chủ động mở rộng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, từ đó cải thiện thu nhập nhân viên, phát triển kỹ thuật mới, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, tiết kiệm ngân sách nhà nước... Theo đó, nhiều BCVL phát triển cả về quy mô và chất lượng với hạ tầng kỹ thuật khang trang, thiết bị hiện đại, nâng cao chất lượng KCB, giảm thủ tục hành chính; dịch vụ kỹ thuật chuyên môn y tế tại một số bệnh viện ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực, góp phần cứu sống nhiều bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội và từng bước đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của nhân dân. Bên cạnh đó, các bệnh viện cũng có cơ hội sắp xếp lại tổ chức bộ máy, hoạt động của các BVCL đang từng bước thay đổi cho phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy tính năng động, sáng tạo trong việc huy động nguồn vốn ngoài ngân sách để đầu tư cơ sở vật chất và mua sắm, liên doanh, liên kết trang thiết bị y tế. Cơ chế tự chủ khuyến khích bệnh viện sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm các nguồn kinh phí để tăng thu nhập cho cán bộ, trích lập các quỹ của bệnh viện; tăng sự hài lòng của người bệnh và giảm tình trạng quá tải của bệnh viện.

Việc thực hiện cơ chế tự chủ không chỉ giúp giảm gánh nặng cho NSNN mà còn tăng hiệu quả chi NSNN cho y tế thông qua việc hỗ trợ người dân mua bảo hiểm y tế (BHYT) và đầu tư cho y tế dự phòng, y tế cơ sở. Cụ thể, việc thực hiện cơ chế tự chủ, điều chỉnh giá dịch vụ theo lộ trình đưa tiền lương vào giá dịch vụ đã góp phần tăng mức độ tự chủ về tài chính, giảm NSNN cấp trực tiếp cho các bệnh viện. Báo cáo của Bộ Y tế tại Phiên giải trình về tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về cơ chế tự chủ đối với BVCL do Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội tổ chức vào ngày 03/10/2019, năm 2019, nhờ tự chủ đã tiết kiệm chi NSNN gần 3.000 tỷ đồng/năm đối với tuyến Trung ương và gần 15.000 tỷ đồng đối với hệ thống y tế địa phương.

Riêng trong 3 năm 2021-2023, tổng chi thường xuyên lĩnh vực y tế bố trí dự toán NSNN 3 năm đạt 226.264 tỷ đồng, chỉ bằng 73% mức chi cả 5 năm giai đoạn trước, chiếm khoảng 6,81% tổng chi thường xuyên của NSNN (tăng 0,11% về tỷ trọng so với 5 năm trước). Điều đó cho thấy, cơ chế tự chủ ngày càng phát huy vai trò trong việc tiết kiệm chi NSNN cho lĩnh vực y tế nói riêng, các BVCL nói riêng (Minh Anh, 2023).

Bên cạnh việc tiết kiệm chi NSNN, nhờ tự chủ, người dân ngày càng tăng cơ hội được tiếp cận các dịch vụ kỹ thuật y tế hiện đại. Thời gian qua, nhiều bệnh viện đã chuyển từ tư duy “phục vụ” sang “cung ứng dịch vụ”; đồng thời, thực hiện các giải pháp để nâng cao chất lượng KCB, rà soát, sửa đổi, bổ sung các nhiệm vụ có khả năng triển khai và phù hợp với năng lực của mình. Trên cơ sở đó, tổ chức lại, sáp nhập, chia tách, giải thể các đơn vị trực thuộc hoạt động không hiệu quả hoặc chưa phù hợp để thành lập các đơn vị mới hoạt động hiệu quả hơn. Bản thân các y, bác sỹ, nhân viên bệnh viện cũng ý thức rõ hơn tinh thần phục vụ người bệnh, có thái độ chuẩn mực hơn.

Một số khó khăn, thách thức

Bên cạnh kết quả đạt được, vấn đề tự chủ ở các BVCL cũng đang đặt ra một số khó khăn, thách thức như sau:

Một là, hành lang pháp lý về cơ chế tự chủ trong lĩnh vực y tế, trong đó có tự chủ đối với BVCL còn chưa đầy đủ; thiếu quy định về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, liên doanh, liên kết, về việc sử dụng thiết bị y tế kỹ thuật cao tại các cơ sở y tế công lập. Việc thực hiện tự chủ đối với bệnh viện tuyến huyện, đặc biệt ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa gặp nhiều khó khăn trong huy động nguồn thu do người dân có mức sống thấp, khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế hạn chế. Một số bệnh viện chuyên khoa, như: lao, phong, tâm thần… cũng gặp khó khăn trong thực hiện tự chủ do khả năng thu thấp.

Hai là, mặc dù các bệnh viện được giao tự chủ, song trên thực tế chưa tự chủ “thực chất” do còn nhiều ràng buộc liên quan đến bộ máy, con người, bố trí nhân sự, biên chế. Việc giao dự toán chi KCB BHYT còn chưa phù hợp với một số bệnh viện, giá dịch vụ y tế chưa tính đúng, tính đủ chi phí trong khi các bệnh viện phải tự chủ kinh phí chi thường xuyên nên ảnh hưởng đến việc cân đối thu – chi của bệnh viện, đặc biệt là các bệnh viện có nguồn thu thấp. Bên cạnh đó, trình độ quản lý điều hành và quản lý tài chính của người đứng đầu bệnh viện về cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu khi chuyển sang cơ chế tự chủ.

Ba là, vấn đề tự chủ tài chính tại các BVCL hiện nay còn đang gặp một số khó khăn. Cụ thể là: Luật Ngân sách nhà nước quy định đơn vị sự nghiệp công lập thuộc đối tượng áp dụng của Luật này. Như vậy, mọi nguồn tài chính của đơn vị đều phải được lập, chấp hành, kiểm toán, quyết toán, giám sát ngân sách nhà nước phải tuân thủ quy định của Luật này. Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành hiện nay rất phức tạp và không thực sự phù hợp với thực tiễn hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đặc biệt là các đơn vị đã tự chủ chi thường xuyên hoặc tự chủ cả chi thường xuyên và chi đầu tư.

Bên cạnh đó, nguồn tài chính của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hiện nay vừa phải tuân thủ các quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và vừa phải tuân thủ các quy định của Luật Đầu tư công nên sẽ phải thực hiện theo nhiều quy trình, thủ tục. Báo cáo của Chính phủ (2022) gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội liên quan việc tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi) đánh giá, điều này sẽ hạn chế mức độ tự chủ của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong quản lý, sử dụng các nguồn tài chính của đơn vị, đặc biệt là đối với nguồn thu được để lại cơ sở sử dụng theo quy định.

Bốn là, vẫn còn sự chênh lệch thu nhập do chưa có chính sách đãi ngộ, thu hút đối với cán bộ y tế, nhất là người có trình độ cao về làm việc tại các bệnh viện, cơ sở y tế vùng khó khăn; đang có tình trạng chuyển dịch lao động từ vùng sâu, vùng xa đến các trung tâm, từ khu vực bệnh viện công sang bệnh viện tư…

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Nhằm tăng cường thực hiện tự chủ đối với BVCL, theo tác giả, cần thực hiện có hiệu quả một số vấn đề sau:

Thứ nhất, để các BVCL có thể tự chủ toàn diện, Nhà nước cần có chủ trương hoặc ban hành khung giá KCB tính đúng, tính đủ chi phí. Ngoài ra, cần ban hành cơ chế thống nhất trong việc thực hiện, thẩm tra công tác KCB bảo hiểm y tế. Đồng thời, cần mở rộng đối tượng hưởng chế độ thu nhập tăng thêm đối với người lao động trong cơ sở y tế và ngân sách cấp bù phần thiếu hụt khi đơn vị cân đối chưa đủ.

Thứ hai, đổi mới cơ chế tài chính y tế theo hướng chi trả theo đầu ra; từng bước chuyển chi thường xuyên từ NSNN cấp trực tiếp cho bệnh viện sang hỗ trợ người dân tham gia BHYT gắn với lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế. Xây dựng tiêu chí dựa trên khả năng thu và dự toán chi theo chế độ, tiêu chuẩn, định mức; có quy định, hướng dẫn cụ thể về phân loại và giao tự chủ cho các bệnh viện có nhiều cơ sở trực thuộc. Cụ thể cần lưu ý một số vấn đề về tài chính như sau:

- Về quản lý các nguồn thu: cần tăng cường khai thác, quản lý tốt các nguồn thu. Việc tăng cường khai thác triệt để và đa dạng hóa các nguồn thu để đảm bảo cho các hoạt động của Bệnh viện là một trong những biện pháp quan trọng nhất mà các bệnh viện đề ra. Ngoài ra, có thể tăng cường khai thác nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp y tế, tăng cường khai thác nguồn thu dịch vụ KCB, giường bệnh… và các dịch vụ khác, như: căng tin, siêu thị tiện ích, trông giữ xe, quầy thuốc, cho thuê đặt máy ATM…

- Về quản lý các hoạt động chi: để quản lý chế độ chi tiêu nội bộ hợp lý, nâng cao hiệu quả các khoản chi, rà soát lại quy trình quản lý và hoạt động chuyên môn đặc biệt là các quy trình thực hiện các dịch vụ kỹ thuật (quy trình KCB, quy trình phẫu thuật, quy trình nội soi, quy trình xét nghệm, quy trình chiếu chụp X-quang...), trên cơ sở đó cắt giảm các chi phí không cần thiết.

- Về quản lý các khoản trích lập và phân phối kết quả tài chính: để giữ chân các bác sĩ có năng lực cần xây dựng Đề án vị trí việc làm cho phù hợp với phương án tự chủ và xây dựng chế độ tiền lương thực hiện cơ chế tự chủ theo kết quả hoạt động như doanh nghiệp (công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hạng II) (đối với nhóm II) và thực hiện cơ chế tự chủ tiền lương theo kết quả hoạt động như doanh nghiệp (công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hạng I) (đối với nhóm I) để trích lập các khoản ngoài lương, thu nhập tăng thêm hợp lí cho đội ngũ y bác sỹ có tài, đóng góp vai trò quan trọng đối với sự phát triển của bệnh viện.

Thứ ba, tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm: trước hết cần nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý tài chính kế toán có tinh thần trách nhiệm cao, tinh thông về nghiệp vụ, giỏi về chuyên môn. Trên cơ sở đó, các bệnh viện có thể thành lập ban kiểm soát hoặc bộ phận Kiểm toán nội bộ độc lập với Phòng Tài chính kế toán để thực hiện nhiệm vụ kiểm soát, kiểm toán mọi khâu trong quá trình lập Kế hoạch tài chính, thực hiện Kế hoạch tài chính và báo cáo quyết toán nhằm sớm phát hiện những sai sót, ngăn ngừa và phát hiện kịp thời những hành vi sai trái và có biện pháp kịp thời giúp Giám đốc bệnh viện quản lý, điều hành hiệu quả công tác tài chính kế toán.

Thứ tư, đổi mới công tác quản lý và tổ chức hoạt động của BVCL. Theo đó, cần nâng cao chất lượng chuyên môn của cán bộ y tế và năng lực quản trị của giám đốc bệnh viện trong các bệnh viện công khi thực hiện cơ chế tự chủ. Theo đó, cần tiếp tục hoàn thiện khung chính sách liên quan tới phát triển nhân lực y tế cơ sở và triển khai thực hiện các giải pháp mang tính cốt lõi nhằm thúc đẩy sự phát triển một cách bền vững đội ngũ nhân lực y tế cơ sở, trong đó bao gồm nhóm giải pháp đào tạo, như: đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo cập nhật liên tục… Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện quyền tự chủ về nhiệm vụ chuyên môn, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính gắn với trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch, không thương mại hóa; phát huy vai trò giám sát của người dân trong tổ chức thực hiện./.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Y tế (2019), Báo cáo tại Phiên giải trình về tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về cơ chế tự chủ đối với BVCL do Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội, tổ chức ngày 03/10/2019.

2. Chính phủ (2021), Nghị định số 60/2021/NĐ-CP, ngày 21/6/2021 quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.

3. Chính phủ (2022), Báo cáo gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội liên quan việc tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi).

4. Minh Anh (2023), Ngân sách nhà nước luôn ưu tiên nguồn lực cho lĩnh vực y tế, truy cập từ https://thoibaotaichinhvietnam.vn/ngan-sach-nha-nuoc-luon-uu-tien-nguon-luc-cho-linh-vuc-y-te-139090.html.

5. Quốc hội (2023), Luật Khám bệnh, chữa bệnh, số 15/2023/QH15, ngày 09/01/2023.

Ngày nhận bài: 22/6/2024; Ngày phản biện: 28/6/2024; Ngày duyệt đăng: 02/7/2024