Từ khóa: chuỗi cung ứng, trụ đỡ, thương mại điện tử, hiệu quả tăng trưởng, công nghiệp chế biến chế tạo, đầu tư công

Summary

As one of the most open economies in the world, depending on demand from trading partners, Vietnam has faced many risks from the global economic recession. As a result, after the very difficult years of Covid-19 (2020-2021), Vietnam's economic recovery in 2023 was lower than expectation. The article looks back at the remarkable achievements in 2023, pointing out the shortcomings, thereby proposing recommendations focusing on improving production efficiency, promoting the development of the domestic market and faster recovery of foreign trade activities based on the advantages of an open economy.

Keywords: supply chain, pillars, e-commerce, growth efficiency, manufacturing sector, public investment

GIỚI THIỆU

Kinh tế Việt Nam đã đi hết chặng đường của năm 2023 đầy khó khăn của kinh tế thế giới, tăng trưởng toàn cầu giảm tốc do chính sách thắt chặt tiền tệ tại các nền kinh tế lớn, cuộc chiến Nga - Ukraine và một số xung đột trên thế giới tiếp tục đè nặng lên các hoạt động kinh tế. Trong bối cảnh đó, thực trạng phát triển kinh tế Việt Nam đã cho thấy sự kiên cường, vững vàng, sẵn sàng vượt sóng để trở thành một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng tích cực của thế giới. Tuy nhiên, nền kinh tế năm 2023 còn nhiều bất cập do sự phục hồi yếu hơn dự kiến của nhu cầu bên ngoài tiếp tục cản trở tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ, làm chậm quá trình phục hồi của việc làm và tiêu dùng trong nước của Việt Nam. Bài viết, theo quan điểm nghiên cứu, đề cập đến những phân tích nhận định, đánh giá về bức tranh tăng trưởng kinh tế Việt Nam trên cả hai mặt nói trên. Từ đó, định hướng một bức tranh vừa phản ánh hiện thực, nhưng tươi sáng hơn cho năm 2024 với một số khuyến nghị.

NHỮNG THÀNH QUẢ ĐÁNG GHI NHẬN

Việt Nam nằm trong nhóm nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất

Năm 2023, phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam diễn ra trong bối cảnh bất lợi cả từ bên ngoài (quốc tế, khu vực trên nhiều linh vực cả kinh tế, chính trị, quân sự) và bên trong (những khó khăn lớn của một nền kinh tế mở phụ thuộc bởi bên ngoài, mới trải qua giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng bởi đại dịch Covid-19), có ảnh hưởng tiêu cực đến chuỗi cung ứng, giá cả, an ninh năng lượng, an ninh lương thực bị đe dọa. Tuy vậy, Việt Nam đạt được kết quả tăng trưởng kinh tế rất đáng trân trọng.

Theo Tổng cục Thống kê công bố, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2023 đạt 5,05% và có xu hướng tăng dần theo thời gian, quý IV đạt 6,72%, cao nhất so với quý III, II và quý I (tương ứng đạt 5,47, 4,25% và 3,41%), cao hơn mức trung bình của thế giới và khu vực cũng như nhiều nước trong giai đoạn tăng trưởng nhanh (Hình 1).

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2023 và định hướng năm 2024
Nguồn: Nhóm tác giả dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê, của Báo cáo phát triển châu Á, 2023

Ngành nông – lâm - thủy sản đóng vai trò “cứu cánh” đáng tin cậy trong mọi lúc khó khăn

Tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm (VA) năm 2023 ngành nông nghiệp đạt tới 3,83%, cao nhất so với cùng kỳ kể từ 2011 đến nay, đóng góp 8,84% tăng trưởng chung, cao hơn mức kế hoạch (3%) đặt ra đối với ngành nông nghiệp 2023. Tăng trưởng nông nghiệp luôn đạt tốc độ cao, kể cả những lúc nền kinh tế gặp khó khăn, đã tiếp tục khẳng định vị thế là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực, góp phần duy trì mức tăng trưởng chung của cả nước, các cân đối lớn của nền kinh tế và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Kết quả tăng trưởng nông nghiệp đạt được như trên khẳng định những thành quả đáng kể của việc định hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Theo ước tính, khoa học và công nghệ đã đóng góp khoảng trên 40% vào thành công trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta thời gian qua. Với nhiều doanh nghiệp, chuyển đổi số trong nông nghiệp đã giúp khắc phục những hạn chế về chất lượng sản phẩm, kết nối thị trường, xây dựng thương hiệu... để từ đó hình thành nền nông nghiệp hiện đại, đem lại giá trị và thu nhập cao. Mặt khác, đóng góp vào thành công trong tăng trưởng nông nghiệp, cần nhấn mạnh đến điểm sáng là kỷ lục về xuất siêu. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản là 53,01 tỷ USD (đạt 99% so với kế hoạch), nhưng xuất siêu năm 2023 đạt mức kỷ lục 12,07 tỷ USD, tăng 43,7% chiếm trên 42,5% xuất siêu cả nước. Một số mặt hàng xuất khẩu tăng cao kỷ lục, như: hàng rau quả đạt 5,69 tỷ USD, tăng 69,2%; gạo đạt 4,78 tỷ USD, tăng 38,4%.

Ngành thương mại điện tử và kinh tế số của Việt Nam đạt tăng trưởng trong nhóm số 1 thế giới

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2023 và định hướng năm 2024
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2023

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2023, quy mô thị trường thương mại điện tử bán lẻ Việt Nam dự kiến đạt 20,5 tỷ USD, tăng khoảng 4 tỷ USD (tương đương 25%) so với năm 2022, chiếm tới 7,5%, doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng cả nước; số lượng người tiêu dùng tham gia mua sắm trực tuyến là trên 54,6 triệu người, giá trị mua sắm trực tuyến của một người đạt gần 270 USD/năm. Số liệu của Công ty Nghiên cứu thị trường Statista (Đức) cho biết, tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử của Việt Nam được xếp vào nhóm 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử hàng đầu thế giới (tính đến tháng 12/2023 theo Statista) và công ty này đã dự báo đến năm 2025, doanh thu bán hàng trực tuyến sẽ chiếm khoảng 10% tổng doanh thu bán lẻ của Việt Nam. Thương mại điện tử đã khẳng định được là một trong những lĩnh vực tiên phong của nền kinh tế số, tạo động lực phát triển kinh tế. Tăng trưởng của thương mại điện tử nhiều năm qua cho thấy, xu hướng tiêu dùng đã có sự thay đổi, khả năng tiếp cận và ứng dụng công nghệ thông tin của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.

Như vậy, trong bối cảnh khó khăn, kinh tế Việt Nam năm 2023 vẫn có những điểm sáng rất đáng trân trọng. Có được kết quả trên, thể hiện sự nỗ lực lớn của Chính phủ, Quốc hội trong việc chỉ đạo thực hiện đồng bộ các chính sách tài khóa, tiền tệ, trong đó phải kể đến việc chỉ đạo giảm liên tiếp 4 lần lãi suất điều hành, chính sách miễn, giảm lãi suất, giãn, hoãn, cơ cấu lại nợ và thực hiện các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, cùng với đó là tập trung chỉ đạo xử lý các ngân hàng yếu kém, các dự án, doanh nghiệp thua lỗ đã kéo dài nhiều năm; kịp thời chỉ đạo tháo gỡ những vấn đề phức tạp phát sinh.

NHỮNG BẤT CẬP CẦN ĐƯỢC NHÌN NHẬN ĐẦY ĐỦ

(1) Mức tăng tưởng GDP năm 2023 là mức đạt được thấp nhất so với cùng kỳ từ năm 2011 trở lại đây, trừ 2 năm liên quan đến đại dịch Covid-19 (2020 và 2021), so với năm 2022, con số 5,05% của năm 2023 chỉ bằng 62% so với tốc độ tăng trưởng năm 2022. Sự suy giảm tốc độ tăng trưởng năm 2023 so với 2022 có thể do các yếu tố không tích cực.

Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2023

Đơn vị: %

2011

2012

2013

2014

2014

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

Nền kinh tế

6,41

5,5

5,55

6,42

6,99

6,69

6,94

7,47

7,36

2,87

2,55

8,12

5,05

Ngành công nghiệp

9,13

7,92

4,99

6,1

8,87

7,36

8,19

8,99

8,14

3,77

4,06

7,79

3,02

Công nghiệp chế biến chế tạo

12,6

8,38

6,5

6,5

9,19

11,1

12,1

11,5

9,59

4,99

5,37

8,19

3,62

Thương mại – dịch vụ

7,65

7,03

6,82

7,31

7,05

7,46

7,12

7,46

8,08

2,01

1,57

9,99

6,82

Nguồn: Báo cáo Tổng cục Thống kê các năm

Số liệu ở Bảng cho thấy:

(i) Ngành công nghiệp chỉ đạt tốc độ tăng trưởng 3,02%, thấp khá nhiều so với chỉ tiêu đặt ra của năm 2023 (9,5%-10%), thấp hơn cả những năm đại dịch Covid-19, thậm chí thấp hơn cả tốc độ tăng trưởng nông nghiệp (đạt 3,88%). Tốc độ tăng trưởng quá chậm của toàn ngành công nghiệp là do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (ngành đóng vai trò chủ lực của công nghiệp) chỉ đạt tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm 3,62%, bằng xấp xỉ 45% tốc độ tăng trưởng của năm 2022. Nhiều sản phẩm công nghiệp chế biến chế tạo có chỉ số IIP (chỉ số sản xuất công nghiệp) giảm đi so với năm trước, trong đó tập trung nhiều vào các sản phẩm có liên quan đến trao đổi thương mại với thị trường bên ngoài. Sản phẩm của các doanh nghiệp FDI, ví dụ, sản xuất xe có động cơ giảm 3% và các phương tiện vận tải khác giảm 11%; sản phẩm điện tử, máy tính giảm 1,8%, sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 4,2%. Giá trị GDP ngành chế biến chế tạo chỉ còn chiểm 22,9% trong GDP nền kinh tế, không đạt so với kế hoạch đặt ra (25,5%) và thấp hơn so với năm 2022 (24%).

(ii) Ngành thương mại - dịch vụ cũng chỉ đạt tốc độ tăng trưởng 6,82%, thấp nhất trong thời gian từ năm 2011 trở lại đây (trừ 2 năm đại dịch covid-19), chỉ bằng 65% năm 2022 và không đạt mục tiêu Kế hoạch đặt ra cho năm 2023 (8%-9%). Trong sự giảm sút tăng trưởng ngành thương mại - dịch vụ, phải kể đến thương mại trao đổi hàng hóa và dịch vụ với thị trường quốc tế, có tốc độ tăng trưởng âm. Tính chung năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giảm 4,4% so với cùng kỳ năm trước và đây chính là năm ghi nhận xuất khẩu tăng trưởng âm lần đầu tiên kể từ năm 2009 - năm chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng khoảng kinh tế - tài chính thế giới. Tương tự như vậy, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa giảm 8,9%. Trong đó, xuất nhập khẩu từ khu vực FDI giảm sút cao hơn (các số liệu tương ứng 5,8% và 9,8%). Một số sản phẩm xuất chủ chủ lực có gắn với các doanh nghiệp FDI năm 2022 đã khôi phục được đà tăng trương khá nhanh, nhưng đến năm 2023 lại nhận được tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm sâu (Hình 3).

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2023 và định hướng năm 2024
Nguồn: Tính toán từ Báo cáo của Tổng cục Thống kê

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trung gian cũng giảm khá mạnh (-13,9%), trong đó có những hàng hóa giảm rất sâu, như: điện thoại và linh kiện (-58,3%), điện gia dụng và linh kiện (-11%), sắt thép (-12%), sợi dệt (-14%), ô tô (-27%), cho thấy những khó khăn chung của hoạt động sản xuất, kinh doanh và phục hồi tăng trưởng sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua.

Những suy giảm tăng trưởng của ngành công nghiệp và thương mại dịch vụ thể hiện rõ những khó khăn của Việt Nam, một đất nước có chỉ số phản ánh độ mở nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới trong bối cảnh thế giới có những biến động bất lợi và tình trạng đứt gãy các chuỗi giá trị toàn cầu do ảnh hưởng của Covid-19 chưa phục hồi được. Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê quý IV/2023, có tới xấp xỉ 69,3% doanh nghiệp ngành công thương cho rằng, không có xu hướng kinh doanh tốt hơn so với các quý trước và 69,4% doanh nghiệp cho rằng, sẽ không có xu hướng tốt hơn ở quý I/2024 với những khó khăn nổi bật nhất là: thiếu đơn hàng, chi phí tăng cao, cạnh tranh thị trường và phổ biến ở các ngành sản phẩm chủ lực: dệt may, da giày, chế biến gỗ, sản xuất, lắp ráp ô tô, điện thoại, linh kiện điện tử... cả các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.

(2) Hiệu quả tăng trưởng thấp

Trước hết, phải nói đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho tăng trưởng thấp thể hiện trước hết ở suất đầu tư tăng trưởng lên quá cao. Theo số liệu Tổng cục Thống kê năm 2023, tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành chiếm 33,5% GDP. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng GDP chỉ đạt 5,05%, như vậy suất đầu tư tăng trưởng năm 2023 là 6,67, con số này cao gần gấp 1,9 lần so với năm 2022 (suất đầu tư tăng trưởng đạt 3,5) và cao hơn so với nhiều năm trước đây, nếu không kể 2 năm đại dịch Covid-19 (bình quân thời kỳ 2016-2019, suất đầu tư tăng trưởng là 6,2). Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp thể hiện thực hiện vốn đầu tư chưa đảm bảo cả ở vốn đầu tư công, vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước và khu vực FDI. Đối với khu vực công, mặc dù Quốc hội, Chính phủ đã liên tục có các chính sách tháo gỡ kích cầu vốn đầu tư công, nhưng tính hết 9 tháng năm 2023, vốn đầu tư công thực hiện đạt 85,3% kế hoạch vốn 2023 và cũng không đạt được mục tiêu tại Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 23/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ về về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đẩy mạnh phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công, 03 chương trình mục tiêu quốc gia năm 2023, thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đề ra thực hiện và giải ngân từ 95%-100% kế hoạch vốn năm 2023. Giải ngân vốn đầu tư công dù có cải thiện, nhưng chưa có sự lan tỏa đối với đầu tư tư nhân, chưa thể hiện vai trò nòng cốt trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước gặp nhiều khó khăn. Một mặt, do xu hướng thắt chặt tiền tệ trên toàn cầu nên mặt bằng lãi suất còn khá cao đối với các doanh nghiệp có nhu cầu đi vay. Mặt khác, doanh nghiệp cũng đối diện những rào cản về mặt quy trình, thủ tục khác nhau khi vay vốn. Trong đó, điển hình nhất là tình trạng doanh nghiệp không thể vay vốn nếu thiếu tài sản thế chấp, doanh nghiệp bị áp đặt các điều kiện tín dụng bất lợi, và thủ tục vay vốn quá phức tạp, phiền hà. Vốn FDI thực hiện chỉ tăng khiêm tốn 3,5% so với cùng kỳ. Giải ngân các chương trình mục tiêu quốc gia đạt 46,77% kế hoạch, bao gồm cả vốn năm 2022 được kéo dài thời gian thực hiện, giải ngân sang năm 2023.

Hai là, hiệu quả sử dụng lao động thể hiện qua chỉ tiêu năng suất lao động xã hội đạt thấp. Tính toán theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2023, năng suất lao động xã hội tính theo kết quả đạt được về GDP (giá cố định) đạt 111,25 triệu đồng/lao động, chỉ tăng 3,73% so với năm 2022. Nếu tính theo giá hiện hành, tốc độ tăng trưởng năng suất lao động năm 2023 đạt 5,3%, thấp hơn kế hoạch đặt ra (5,5%-6%), đạt thấp hơn so với con số bình quân giai đoạn 2016-2023 (đạt 6,4%/năm). Năng suất lao động thấp, một mặt do những khó khăn của các doanh nghiệp dẫn đến: số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là tăng 20,7% so với năm trước. Doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 28,9%, bình quân một tháng có 14,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, trong khi số doanh nghiệp mới thành lập có xu hướng giảm về số vốn đăng ký (- 4,4%). Doanh nghiệp đóng cửa là một lý do dẫn đến thất nghiệp của người lao động trở nên nhiều hơn. Chỉ số sử dụng lao động năm 2023 chỉ bằng 97,8% so với năm 2022. Bên cạnh nguyên nhân nói riêng của năm 2023 như trên, năng suất lao động tăng trưởng thấp còn xuất phát từ nguyên nhân sẵn có mà chúng ta chưa giải quyết được, đó là: Chất lượng nguồn nhân lực thấp, thiếu hụt lao động lành nghề có kỹ năng cao; Chưa phát huy được vai trò chủ đạo của năng suất lao động nội ngành; Ứng dụng công nghệ, kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh còn hạn chế, máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu, cơ cấu lao động theo ngành kinh tế chưa hợp lý.

Ngành nông nghiệp trong năm 2023 có đạt tăng trưởng cao do không bị ảnh hưởng nhiều bởi những khó khăn bởi môi trường quốc tế có nhiều biến động. Tuy nhiên, với khoảng 14 triệu lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 27,5% tổng số lao động toàn nền kinh tế, trong khi năng suất lao động của khu vực này chỉ bằng 43,1% mức năng suất lao động chung của toàn nền kinh tế, bởi đa số lao động trong khu vực này là lao động giản đơn, công việc có tính thời vụ, không ổn định, tạo ra giá trị gia tăng thấp cũng là nguyên nhân làm tốc độ tăng năng suất lao động chậm lại.

Ba là, một số hệ lụy không tích cực đối với thu ngân sách nhà nước và và mức độ cải thiện đời sống nhân dân. Do tăng trưởng thấp và những khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, tất cả các nguồn thu đều sụt giảm so với năm ngoái, khiến công tác thu ngân sách nhà nước năm nay đối mặt nhiều khó khăn, chủ yếu do hoạt động sản xuất, kinh doanh gặp khó. Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2023 giảm 5,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong sự sụt giảm chung của các nguồn thu, phải kể đến 3 khoản lớn nhất, đó là: thu nội địa, thu từ dầu thô và thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất - nhập khẩu (mức sụt giảm theo thứ tự: 0,3%, 19,5% và 25,4% so với năm 2022).

Tăng trưởng kinh tế chậm lại, những khó khăn trong phát triển kinh tế của các doanh nghiệp đã có những ảnh hưởng không tích cực đến đời sống của người lao động nói riêng và xã hội nói chung. Mặc dù tính chung năm 2023, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động giảm đi, nhưng khu vực công nghiệp tình trạng thất nghiệp lại tăng lên: số lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp giảm 2,2% so với 2022, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 3,1%, ngoài nhà nước giảm 2,2% và doanh nghiệp FDI giảm 2%. Lao động làm việc trong ngành côn nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,3%.

Cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân của lao động là 7,1 triệu đồng/tháng, cao hơn 6,9% so với năm 2022, tuy nhiên khó khăn thuộc về những lao động yếu thế trong xã hội, lao động nữ bình quân thu nhập tháng chỉ đạt 6,1 triệu đồng và khu vực nông thôn chỉ là 6,2 triệu đồng. Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê về nguyên nhân chính làm cho thu nhập giảm có thể thấy: (i) Chủ yếu là do các thành viên trong hộ gia đình bị mất việc làm hoặc tạm nghỉ việc, cụ thể, trong thời gian qua, có tới 39,5% hộ gia đình có thành viên mất việc làm/tạm nghỉ việc; (ii) Đối với các hộ gia đình có sản xuất kinh doanh theo mô hình kinh tế hộ gia đình, thì có 23,9% hộ đánh giá do chi phí đầu vào cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của hộ tăng và 22,3% hộ đánh giá do giá bán các sản phẩm từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ giảm; (iii) Do giá cả hàng hóa và dịch vụ gia tăng cao, trong thời gian qua, có tới 30,4% hộ đang phải chịu những ảnh hưởng do giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao.

ĐỊNH HƯỚNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NĂM 2024

Định hướng mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2024 được bài viết dựa trên những căn cứ sau đây:

Thứ nhất, dự báo của một số tổ chức quốc tế

Bảng 2: Tổng hợp các dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023

Các tổ chức

Dự báo

Lý do

Ngân hàng Thế giới (WB)

5,5 %

Phục hồi các đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn còn nhiều khó khăn

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)

5,5%-6,0%

Cải thiện chất lượng, hiệu quả tăng trưởng của doanh nghiệp, nhất là năng suất lao động

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)

6,0%

Các nhu cầu bên ngoài được phục hồi và chủ động linh hoạt trong các chính sách kiểm soát lạm phát

Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc - UNDP

6%-6,5%

Cải thiện các động lực tăng trưởng kinh tế, cải thiện thể chế và môi trường kinh doanh

Ngân hàng HSBC

6,0%

Lực cầu tăng trở lại và chi tiêu nội địa được dự báo tăng.

Nguồn: WB, IMF, ADB, UNDP, HSBC

Thứ hai, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024

Tại kỳ họp thứ 6, ngày 01/11/2023, Quốc hội khóa XV đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, theo đó các chỉ tiêu chủ yếu, gồm: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 6%-6,5%; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.700-4.730 USD. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 24,1%-24,2%. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%-4,5%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân khoảng 4,8%-5,3%. Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt 26,5%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 69%, trong đó có bằng, chứng chỉ đạt khoảng 28,5%. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%. Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều) giảm trên 1%. Để đạt được mục tiêu trên, Nghị quyết Quốc hội đã nêu rõ điều kiện cần là: Tập trung thực hiện hiệu quả, thực chất cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng cường năng lực nội sinh, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển nhanh, bền vững; Đẩy mạnh phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thương mại điện tử, các ngành, lĩnh vực mới nổi, các mô hình kinh doanh mới, hiệu quả; Thu hút có chọn lọc các dự án đầu tư nước ngoài, nhất là trong những ngành, lĩnh vực mới nổi gắn kết chặt chẽ với thị trường trong nước và các doanh nghiệp trong nước, tham gia sâu rộng hơn vào các chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.

Thứ ba, những thông tin từ phía doanh nghiệp

Theo kết quả khảo sát xu hướng kinh doanh các doanh nghiệp chế biến, chế tạo quý I/2023 được thực hiện bởi Tổng cục Thống kê cho thấy, những nhận định lạc quan hơn của doanh nghiệp về xu hướng sản xuất, kinh doanh: 71% doanh nghiệp đánh giá xu hướng kinh doanh tốt hơn và ổn định vào quý I/2024 so với quý IV/2023 với 31,6% đánh giá cao hơn, trong đó khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước là 72,3%, khu vực FDI 71% và doanh nghiệp nhà nước là 66,8%. Cụ thể: Về khối lượng sản xuất: có 72,9% số doanh nghiệp dự báo quý I/2024 cao hơn quý IV/2023 với 32,7% đánh giá cao hơn; tương tự về đơn hàng và đơn hàng xuất khẩu các số liệu tương ứng là 72,7% và 71,4%, trong đó các đánh giá cao hơn là 29,3% và 24,6%. Như vậy, thông tin từ phía doanh nghiệp cho thấy, tăng trưởng kinh tế khó có thể đạt mức cao hơn năm 2023, mức đạt được cao hơn khoảng 25%-30%

Dựa trên các căn cứ nói trên, tác giả đề xuất mục tiêu tăng trưởng năm 2023 là 5,5%-6% và trong điều kiện thuận lợi hơn có thể đạt được mức 6,5%. Con số này phù hợp với những dự báo tích cực trong tăng trưởng GDP của Việt Nam của một số tổ chức quốc tế (WB, UNDP), phù hợp với cận dưới của Kế hoạch 2023 được Quốc hội phê duyệt, đồng thời còn thể hiện vai trò của năm bản lề của việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng đặt ra trong kế hoạch 5 năm 2021-2025. Tuy vậy, mục tiêu này đạt được kèm theo những giải pháp tích cực.

CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

Thứ nhất, nâng cao hiệu quả, nhất là tăng năng suất lao động để giảm bớt nguy cơ tụt hậu đồng thời đẩy mạnh dược tăng trưởng kinh tế nhanh hơn. Cụ thể, Việt Nam cần phải: (i) Tiếp tục cải cách kinh tế, hoàn thiện cơ chế thị trường cạnh tranh lành mạnh, không bị lũng đoạn vì sự tham nhũng của các tập đoàn lợi ích; (ii) Tăng cường hiệu năng của bộ máy hành chính; (iii) Đào tạo công nhân viên có trình độ kỹ thuật đáp ứng với nhu cầu hiện nay; (iv) Xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là cho công nghiệp số và công nghiệp xanh, thu hút và sử dụng tốt dòng vốn FDI đang được chuyển hướng từ chú trọng quy mô số lượng sang các dòng vốn FDI có chất lượng, FDI thế hệ mới gắn với công nghệ cao, công nghệ số và bảo đảm các yêu cầu chuyển giao công nghệ. Khuyến khích các phương thức đầu tư, mô hình kinh doanh mới, xanh, ít phát thải, có sự tham gia của các doanh nghiệp FDI và đầu tư tư nhân.

Thứ hai, triển khai hiệu quả các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu. Là nền kinh tế có độ mở lớn với nhiều ngành hàng hội nhập từ sớm, các doanh nghiệp đã có thêm khá nhiều kinh nghiệm ứng phó với các giai đoạn khó khăn ở cả bên trong lẫn bên ngoài. Để khắc phục tình trạng suy giảm xuất khẩu, Bộ Công Thương cần tiếp tục đẩy mạnh đàm phán, ký kết các hiệp định, cam kết, liên kết thương mại mới, ký kết các FTA với các đối tác còn nhiều tiền năng để đa dạng hóa thị trường, sản phẩm và chuỗi cung ứng. Để thực hiện đồng bộ nội dung trên, Bộ Công Thương cho rằng: (i) Các bộ, ngành tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp và thương mại đồng bộ từ Trung ương đến địa phương; (ii) Tiếp tục mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, hướng đến các thị trường mới, thị trường còn tiềm năng; (iii) Đổi mới và tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics, qua đó giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu; (iv) Tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh; (v) Chủ động phối hợp xử lý công việc gắn với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi hoạt động.

Thứ ba, tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp thiếu vốn, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, có giải pháp hỗ trợ một số ngành, lĩnh vực chịu tác động bất lợi do nhu cầu của thị trường thế giới suy giảm như: da giày, dệt may, sản xuất và chế biến gỗ. Đối với khu vực sản xuất trong nước, Chính phủ cần hỗ trợ các lĩnh vực sản xuất có thể chiếm lĩnh được các thị trường nội địa, qua đó thúc đẩy ngành dịch vụ, bán buôn bán lẻ trong nước sôi động hơn. Sự phục hồi của sản xuất mới là động lực chính của tăng trưởng năm 2024 và những năm sắp tới. Tuy vậy, cũng cần phải lưu ý trong quá trình hỗ trợ doanh nghiệp, phải chú ý đến tình trạng nợ xấu của doanh nghiệp hiện tại quá cao nếu không, nền kinh tế luôn luôn bị đe dọa bởi khủng hoảng nợ và tăng trưởng chậm. Tình trạng giải quyết nợ doanh nghiệp quá cao rất phức tạp, vì cách giải quyết nào cũng có cái giá phải trả. Để tránh hiệu ứng xấu, về nguyên lý, cũng như theo kinh nghiệm của một số nước thành công, một mặt đẩy mạnh thanh lý/tái cấu trúc nợ xấu doanh nghiệp vừa phải mà nền kinh tế, xã hội có thể chịu được; mặt khác, cần có giải pháp kích cầu và yểm trợ có chọn lọc để đảm bảo tăng trưởng tối thiểu và đối phó với cái giá phải trả là tình trạng này có thể kéo dài thêm.

Thứ tư, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ đầu tư công. Cần xác định năm 2024, đầu tư công và là một động lực, là “cứu cánh” cho tăng trưởng kinh tế. Cần xóa bỏ tư duy tháo gỡ từng điểm, từng sự án trong đầu tư công mà cần có giải pháp giải quyết đồng bộ. Chính phủ cần ưu tiên kích cầu đầu tư công vào các dựa án sắp hoàn thành, nhanh chóng đưa vào sử dụng các dự án có quy mô lớn, có tiềm năng góp phần trực tiếp duy trì và mở rộng năng lực sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế. Cần đẩy mạnh tiến độ đầu tư công giúp tổng cầu của nền kinh tế tăng lên. Nhờ đó, kích thích các doanh nghiệp gia nhập thị trường nhiều hơn để phát triển sản xuất bằng các giải pháp thích ứng. Việc khơi thông dòng vốn đầu tư công cần được bắt đầu từ giải quyết từ những vướng mắc về cơ chế, chính sách liên quan đến trình tự lập, thẩm định kế hoạch đầu tư công hằng năm, thẩm quyền quyết định thời gian bố trí vốn; vướng mắc trong công tác xác định giá đất để thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng; trình tự thủ tục cấp phép kinh doanh cho các doanh nghiệp./.

*Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài " Phát triển kinh tế tư nhân của người việt Nam trong định hướng và tầm nhìn phát triển mới" (mã số KX04.16/2021-2025)

GS, TS. Ngô Thắng Lợi, PGS, TS. Bùi Đức Tuân

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Mai Quang Hưng

Trường THPT chuyên Hà Nội - Amsterdam/Email: hungmaiquangvietnam@gmail.com

(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 01, tháng 01/2024)


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. HSBC (2023), Báo cáo tài chính năm 2023.

2. IMF (2023), Báo cáo triển vọng phát triển kinh tế thế giới 2023.

3. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) (2023), Báo cáo Cập nhật Triển vọng phát triển châu Á (ADB) 2023.

4. Ngân hàng Thế giới (WB) (2023), Báo cáo cập nhật khu vực kinh tế châu Á - Thái Bình Dương.

5. Quốc hội khóa 15 (2023), Nghị quyết số 103/2023/QH15, ngày 24/11/2023 Về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024.

6. Tổng cục Thống kê (2016-2023), Niên giám Thống kê các năm, từ năm 2015 đến năm 2022, Nxb Thống kê.

7. Tổng cục Thống kê (2023), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2023.