Bài viết dựa trên các số liệu thống kê, có sự so sánh với năm 2020 và với các nước trên thế giới, đánh giá những điểm mạnh và hạn chế trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam, từ đó đưa ra những định hướng cho năm 2022 và những giải pháp thích ứng trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 có thể vẫn phức tạp.

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam: bức tranh năm 2021  và định hướng năm 2022

NHỮNG XU HƯỚNG VÀ THÀNH QUẢ ĐƯỢC KHẲNG ĐỊNH

Thứ nhất, xu hướng phục hồi kinh tế vững chắc vào quý VI

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM: BỨC TRANH NĂM 2021  VÀ ĐỊNH HƯỚNG NĂM 2022
Sự phục hồi tăng trưởng kinh tế Việt Nam quý IV/2021 là đáng ghi nhận, phần lớn các chỉ tiêu tăng trưởng chung đều vượt so với cùng kỳ năm trước

Dựa trên quan điểm “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch covid-19”, Nghị quyết số 128/NQ-CP, ngày 11/10/2021 của Chính phủ ban hành quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” được ban hành, có nhiều điểm mới liên quan đến chủ trương phát triển kinh tế theo tư duy “sống chung với dịch bệnh”, phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương trong kiểm soát tình hình dịch bệnh, tạo điều kiện khôi phục sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội, đưa đời sống sinh hoạt của nhân dân dần trở lại tình trạng bình thường mới; không để tình trạng cục bộ, cát cứ trong ban hành và thực hiện các giải pháp trên mức cần thiết gây ảnh hưởng tiêu cực tới sản xuất, kinh doanh, đời sống xã hội. Nhờ đó, kinh tế quý IV/2021 đã phục hồi và tạo được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh sau 3 tháng tăng trưởng âm.

Bảng 1: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2 quý cuối các năm 2020, 2021

Quý III/2020

Quý IV/2020

Quý III/2021

Quý IV/2021

Toàn nền kinh tế

2,69

4,61

-6,02

5,22

Nông nghiệp

2,79

4,69

1,2

3,16

Công nghiệp – xây dựng

3,2

5,6

-5,49

5,61

Dịch vụ

2,9

4,29

-8,58

5,42

Nguồn: [2]

Số liệu Bảng 1 cho thấy, phục hồi tăng trưởng kinh tế Việt Nam quý IV/2021 là đáng ghi nhận, phần lớn các chỉ tiêu tăng trưởng chung và các ngành kinh tế không những vượt ra khỏi tình trạng tăng trưởng âm của quý III, mà còn vượt được so với cùng kỳ năm trước. Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp (DN) do Tổng cục Thống kê thực hiện cũng thể hiện khá rõ kết quả kinh doanh của DN trong quý IV/2021 cho thấy: 76,2% số DN có khối lượng sản xuất của DN tăng và 75,1% số DN đánh giá tình hình sản xuất, kinh doanh tốt hơn so với quý III/2021 (trong khi đó, quý III/2021, các kết quả nhận được tương ứng chỉ là 32,6 và 38,6%). Đặc biệt, khu vực FDI có tới 83,1% các DN tỏ ra khá lạc quan và vì thế, các dòng vốn FDI vào Việt Nam trong quý IV tăng nhanh sau 10 tháng suy giảm, kể cả vốn đăng ký mới và vốn đăng ký tăng thêm.

Thứ hai, nông nghiệp khẳng định vai trò trụ đỡ tăng trưởng kinh tế trong điều kiện khó khăn

Năm 2021, đối mặt nhiều khó khăn, thách thức, nhất là ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhưng ngành nông nghiệp đã đạt được những kết quả hết sức khả quan.

Hình 1: Tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp giai đoạn 2011-2021

Đơn vị: %

Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê

Hình 1 cho thấy, năm 2021, tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp (đạt 2,9%) đã vượt tốc độ tăng trưởng toàn nền kinh tế (đạt 2,58%, chỉ bằng 89% ngành nông nghiệp). Tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp đã ngang với năm 2017 (trong khi tăng trưởng năm 2017 đạt 6,81%). Mặc dù thấp hơn năm 2018 (tăng trưởng nông nghiệp đạt 3,76%), nhưng GDP toàn nền kinh tế năm 2018 đã đạt tới 7,08%. Điều này thể hiện những thành quả đáng ghi nhận của ngành nông nghiệp, không chỉ đạt và vượt các mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, mà còn tiếp tục khẳng định vai trò “trụ cột” của nền kinh tế. Tăng trưởng ngành nông nghiệp đóng góp 13,97% vào tốc độ tăng trưởng chung toàn nền kinh tế (cao nhất sau nhiều năm, năm 2019 là 4,6% và năm 2020 đạt 13,45%). Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 6,2% so với năm 2020, thì doanh thu bán lẻ hàng hóa lương thực, thực phẩm vẫn tăng 10,6%.

Thứ ba, xuất - nhập khẩu có dấu hiệu tăng trưởng nhanh

Vượt qua chặng đường gập ghềnh năm 2021, hoạt động xuất - nhập khẩu của Việt Nam đã đạt được những thành tựu tốt nhất sau 4,5 năm trở lại đây. Kim ngạch xuất - nhập khẩu đạt con số kỷ lục 668,5 tỷ USD, cán cân thương mại đạt xuất siêu 4 tỷ USD.

Hình 2: Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất - nhập khẩu 2017-2021

Đơn vị: %

Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê

Như vậy, có thể nói, tốc tăng trưởng kim ngạch xuất - nhập khẩu của Việt Nam đạt rất cao so với nhiều năm qua, kể cả trong bối cảnh khó khăn của dịch Covid-19. Kim ngạch xuất khẩu gia tăng thể hiện việc Việt Nam đã khai thác được triệt để các hiệp định thương mại tự do và đạt kết quả khả quan, đặc biệt là Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA); nhờ đó, xuất siêu sang EU lần đầu tiên đạt tới 23 tỷ USD, tăng 12,1%. Kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh và tỷ trọng nhập khẩu nguyên vật liệu chiếm cao (46,9%, tăng 2,3 điểm phần trăm so với năm 2020) đã một phần nào đó thể hiện việc Việt Nam phục hồi các chuỗi giá trị bị đứt gãy trong năm đầu của đại dịch Covid-19, thông qua việc tạo dựng niềm tin và các điều kiện sản xuất thuận lợi đối với các DN FDI.

Một điều đáng nói trong những dấu hiệu tích cực của hoạt động xuất - nhập khẩu là, nó không chỉ tăng trưởng nhanh ở khu vực FDI, mà còn cả ở khu vực trong nước. Nhiều danh mục sản phẩm hàng hóa xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng nhanh và nằm trong nhóm hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 10 tỷ USD mang dáng dấp của những sản phẩm sản xuất trong nước.

Bảng 2: Mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch hơn 10 tỷ USD từ các DN trong nước năm 2021

Kim ngạch (tỷ USD)

Tốc độ tăng (%)

Nông - lâm - thủy sản

23,76

15,0

Gỗ và các sản phẩm gỗ

14,8

19,7

Sắt thép

11,75

123,4

Nguồn: [2]

Thứ tư, ngành thương mại điện tử tiếp tục được khẳng định sự phát triển đang dần trở thành ngành phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á

Đại dịch Covid-19 trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra những “lực đẩy” rất lớn để thị trường thương mại điện tử Việt Nam có thể tăng tốc phát triển toàn diện, với số lượng và giá trị các giao dịch tăng trưởng vượt trội. Thương mại điện tử ở Việt Nam đã bùng phát từ năm 2019, đến năm 2020, dấu hiệu tăng trưởng mạnh hơn. Số lượng danh mục hàng hóa được người mua sắm trực tuyến Việt Nam mua trong năm 2021 tăng 50% so với năm 2020, trong khi số lượng cửa hàng trực tuyến tại Việt Nam cũng tăng 40% so với cùng kỳ năm ngoái, dẫn đến tổng doanh số bán lẻ trực tuyến trên toàn quốc tăng gấp 1,5 lần; khoảng 49% người tiêu dùng Việt Nam chuyển sang mua sắm trực tuyến trong vòng 3 tháng qua, do sức hấp dẫn của các ưu đãi về giá (45%); chất lượng sản phẩm (34%) và sự sẵn có của hàng hóa (33%). Lần đầu tiên, thanh toán sử dụng tiền mặt có nguy cơ bị “truất ngôi” với mức giảm đáng kể từ 60% năm 2020 xuống chỉ còn 42% vào năm 2021 [9]. Việc tăng trưởng doanh thu từ thương mại điện tử gia tăng phản ánh xu thế của sự phát triển công nghệ kỹ thuật số (năm 2021, nền kinh tế số của Việt Nam tăng trưởng 32%), nhưng kết quả này cũng là xuất phát từ đặc trưng của thời kỳ đại dịch Covid-19. Trong năm 2021, người Việt Nam dành phần lớn thời gian cho việc sử dụng mạng xã hội, nhắn tin, xem video, mua sắm trực tuyến và gửi thư điện tử (email), vì 72% thời gian của họ là ở nhà [9].

NHỮNG DẤU HIỆU KHÔNG TÍCH CỰC

(1) Sự suy giảm tăng trưởng tiếp tục diễn ra trong khi thế giới đang có xu hướng phục hồi tích cực

Theo số liệu thống kê năm 2021, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tiếp tục suy giảm, chỉ đạt 2,58%, thấp hơn tốc độ tăng trưởng năm 2020 (2,91%). Bảng 3 cho thấy, xu hướng tăng trưởng GDP và các yếu tố nguồn lực của năm 2021 có xu hướng tiêu cực hơn năm 2020.

Bảng 3: Một số chỉ tiêu liên quan đến tăng trưởng kinh tế 2020 và 2021

Chỉ tiêu

2020

2021

Tốc độ tăng trưởng GDP (%)

2,58

2,91

Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư (%)

3,2

5,0

Vốn đầu tư nước ngoài (tỷ USD)

19,98

19,74

Tốc độ tăng trưởng NSLĐ (%)

4,71

5,4

Số DN gia nhập thị trường

Giảm 10,7%

Giảm 2,3%

Số DN rút khỏi thị trường

Tăng 17,8%

Tăng 13,43%

Nguồn: Số liệu báo cáo Tổng cục Thống kê

Nếu năm 2020, mặc dù kinh tế toàn cầu bị suy giảm, nhưng Việt Nam lại là nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới, thì năm 2021, trong khi thế giới có sự cải thiện lớn về tăng trưởng, Việt Nam vẫn chưa có sự cải thiện tình trạng suy giảm (Bảng 4). Điều này thể hiện rằng, mặc dù Việt Nam đã có những chính sách ứng phó thích hợp với điều kiện dịch bệnh, có những sự thay đổi tích cực trong chuyển hướng chỉ đạo phát triển kinh tế theo hướng mới, nhưng hiệu quả chưa đủ để thúc đẩy nền kinh tế của năm 2021. Vì thế, nếu năm 2020, Việt Nam là một số ít nước trên thế giới có được sự tăng trưởng về GDP bình quân đầu người, thì năm 2021, ảnh hưởng của dịch Covid-19 đã dẫn đến hậu quả tỷ lệ thất nghiệp (3,2%) và tỷ lệ thiếu việc làm (3,1%) cao hơn năm 2020 (các con số tương ứng là 2,48% và 2,51%). Số người có việc làm, thu nhập của người làm công hưởng lương thấp hơn năm trước và theo kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư năm 2021, ước tính thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2021 theo giá hiện hành giảm khoảng 2% so với năm 2020.

(2) Chất lượng tăng trưởng tiếp tục suy giảm

Có thể nói, giai đoạn 2016-2020 đã khẳng định xu hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trên cả khía cạnh hiệu quả sử dụng các yếu tố nguồn lực và cấu trúc của tăng trưởng. Tuy nhiên, các tiêu chí phản ánh chất lượng tăng trưởng bắt đầu có xu hướng giảm từ năm 2020, do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 và năm 2021, tiếp tục giảm nhiều hơn (Bảng 4). Tốc độ tăng trưởng năng suất lao động (NSLĐ) năm 2021 giảm so với năm 2002 giảm đi khoảng 0,7 điểm phần trăm. Điều này được giải thích bởi tỷ lệ thất nghiệp năm 2021 đã tăng lên so với năm 2020 là 0,72 điểm phần trăm. Tỷ lệ lao động hoạt động kinh tế của năm 2021 cũng giảm đi so với năm 2019 là 1,2%. Hiện tượng giảm lao động và tăng tỷ lệ thất nghiệp thể hiện rõ ở khu vực công nghiệp và thương mại dịch vụ. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư năm 2021 thấp đi khá rõ, với giá trị hệ số ICOR năm 2021 tăng lên so với năm 2020 là 8,6%.

Bảng 4: Một số tiêu chí chất lượng tăng trưởng

Tiêu chí

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Tăng trưởng NSLĐ (%)

5,29

6,02

6,00

6,09

5,4

4,71

Suất đầu tư tăng trưởng

6,42

6,4

5,9

6,08

11,5

13,3

Đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng (%)

43

42,1

42,7

45

33,5

22,3

Đóng góp TFP vào tăng trưởng (%)

44,87

46,09

44,76

47,71

37,48

37,13

Nguồn: Nhóm tác giả tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê

Xét cấu trúc tăng trưởng theo ngành, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ thông thường chiếm khoảng 40%-45%, nhưng từ năm 2020, con số này giảm đi và đến năm 2021, đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng chỉ còn 22,3%, thấp nhất trong nhiều năm qua. Tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng năm 2021 cũng chiếm thấp nhất trong những năm gần đây.

(3) Ngành dịch vụ tiếp tục suy giảm tăng trưởng mạnh hơn

Ngành dịch vụ năm 2021 bị ảnh hưởng nặng nề nhất, do nhạy cảm với các biện pháp giãn cách xã hội. Theo số liệu báo cáo của Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ tăng 1,22% và đóng góp 22,23%, thấp hơn so với năm 2020 khá nhiều (các con số tương ứng là 2,34%; 33,5%), đóng góp 60% trong tổng mức giảm tăng trưởng GDP. Kết quả này đã làm cho tỷ trọng GDP ngành thương mại, dịch vụ có xu hướng giảm đi trong cơ cấu ngành kinh tế, nếu năm 2019 chiếm 41,64%; năm 2020 là 41,62%, thì đến năm 2021 chỉ còn 40,95%. Sự suy giảm tăng trưởng ngành thương mại, dịch vụ thể hiện ở hầu hết các lĩnh vực, trong đó nhiều lĩnh vực nhận giá trị tăng trưởng âm.

Các DN thương mại, dịch vụ là động lực chính, đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế ngành, nhưng đại dịch Covid-19 kéo dài đã phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Năm 2021, số DN rút lui khỏi thị trường tăng 12,7% và chiếm 72% tổng số DN rút lui khỏi thị trường. Trong khi đó, niềm tin vào thị trường sụt giảm làm cho số DN đăng ký thành lập mới giảm nghiêm trọng. Tổng số DN thành lập mới giảm 13,6% so với cùng kỳ năm trước; số DN quay trở lại hoạt động trong khu vực dịch vụ đã giảm 6,3% so với cùng kỳ năm trước. Ngành thương mại, dịch vụ suy giảm tăng trưởng một phần cũng là do sức cầu thị trường trong nước yếu, nhu cầu chủ yếu tập trung vào các mặt hàng thiết yếu, nhu cầu hàng tiêu dùng giảm mạnh bởi tâm lý tiết kiệm và thu nhập của người dân sụt giảm mạnh trong bối cảnh dịch bệnh kéo dài. Xuất hiện tình trạng đứt gãy một số chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng, lưu thông hàng hóa có lúc, có nơi ách tắc cục bộ, đặc biệt là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

ĐỊNH HƯỚNG TĂNG TRƯỞNG CHO NĂM 2022

Định hướng mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2021 được bài viết dựa trên những căn cứ sau đây:

(i) Dự báo của một số tổ chức quốc tế và trong nước

Bảng 6: Tổng hợp các dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022

Các tổ chức

Dự báo

Lý do

Ngân hàng Thế giới (WB)

6,0%-6,5%

Kiểm soát tốt dịch bệnh và cải thiện cán cân cung - cầu

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)

6,6%

Kiểm soát tốt dịch bệnh, thị trường lao động ít bị tổn thương, các chính sách tài khóa và tiền tệ dự kiến vẫn mang tính hỗ trợ, ở mức cao hơn so với năm 2021.

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)

7%

Kiểm soát tốt đại dịch, thế giới phục hồi xuất khẩu vượt trội và Việt Nam là quốc gia tiếp tục tận dụng được cơ hội để tăng tốc xuất khẩu.

Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP)

6,3%

Kiểm soát đại dịch và tăng cường chính sách tài khóa tích cực nhằm hỗ trợ tiêu dùng trong nước và các DN đang thua lỗ hoặc đình chỉ sản xuất do đại dịch.

Ngân hàng HSBC

6,8%

Đầu tư FDI mạnh mẽ trở lại, từ đó thúc đẩy xuất khẩu cho Việt Nam, đặc biệt khi các FTA mới ký gần đây bắt đầu mang lại hiệu quả.

Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp từ các nguồn WB, IMF, ADB, UNDP, HSBC

Trong thời gian qua, nhiều tổ chức trong và ngoài nước, như WB, IMF, ADB, UNDP hay ngân hàng HSBC, đã đưa ra các dự báo khá lạc quan về tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022. Theo đó, các tổ chức này đều dự báo, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 trong khoảng 6%-7% (Bảng 6).

(ii) Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022

Ngày 15/11/2021 tại kỳ họp lần thứ 2 Quốc hội khóa XV đã ban hành Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 với các mục tiêu và điều kiện cụ thể, theo đó: tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 6%-6,5%; GDP bình quân đầu người khoảng 3.900 USD; với điều kiện tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%, tốc độ tăng NSLĐ xã hội khoảng 3,5%-4% với các điểm nhấn quan trọng: Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, bảo vệ tối đa sức khỏe, tính mạng nhân dân, cùng với tập trung tận dụng tốt các cơ hội để thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội với các giải pháp tổng thể kích thích nền kinh tế, hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn cho DN và người dân, không để suy giảm các động lực tăng trưởng trong dài hạn.

(iii) Những thông tin từ phía DN

Kết quả khảo sát xu hướng kinh doanh các DN chế biến, chế tạo quý IV được thực hiện bởi Tổng cục Thống kê cho thấy, những nhận định lạc quan của DN về tình hình sản xuất, kinh doanh năm 2022, với 81,7% DN đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn so với quý IV/2021. Cũng so với quý IV/2021: Về khối lượng sản xuất, có 82,6% số DN dự báo khối lượng sản xuất tăng và ổn định; Về đơn đặt hàng, có 83,2% số DN dự kiến có đơn hàng tăng lên và ổn định; Về đơn đặt hàng xuất khẩu có 83,3% số DN dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu mới và ổn định. Với các khảo sát này, có thể thấy việc đạt được con số tăng trưởng GDP 6%-6,5% là khả thi, vì quý IV/2021, tăng trưởng GDP của Việt Nam đã đạt được 5,22%; trong khi đó, trên 80% DN khẳng định năm 2022 sẽ có xu hướng tăng trưởng lên hoặc ít nhất là ổn định.

Dựa trên các căn cứ nói trên, nhóm tác giả đồng tình với mục tiêu tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022 được Quốc hội khóa XV phê duyệt trong Hội nghị lần thứ 2 là 6,0%-6,5%. Con số này phù hợp với khoảng tăng trưởng được phần lớn các tổ chức quốc tế, các các chuyên gia quốc tế, cũng như trong nước đưa ra. Tuy vậy, mục tiêu này đạt được kèm theo những giải pháp đồng bộ và hiệu quả.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUAN TRỌNG CẦN THỰC HIỆN TRONG NĂM 2022

Thứ nhất, chủ động kiểm soát dịch bệnh - Điều kiện cần của việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế

Tất cả các dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 đều đặt ra một điều kiện để thực hiện, đó là kiểm soát tốt đại dịch Covid-19. Nhóm tác giả cho rằng, để thực hiện điều đó, chủ trương thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh Covid-19 cần tiếp tục triển khai và thực hiện có hiệu quả trong năm 2022. Theo đó:

(i) Cần phải nắm chắc, bám sát thực tiễn, dự báo tốt tình hình, nhất là diễn biến dịch bệnh;

(ii) Nhiệm vụ tiêm vaccine đóng vai trò xuyên suốt quá trình phòng chống và giải pháp mang tính quyết định để kiểm soát dịch, vì thế, cần có kế hoạch rất cụ thể hoàn thành tiêm mũi 2 và xây dựng kế hoạch phù hợp và triển khai tiêm mũi thứ 3, kể cả việc tổ chức tiêm vaccine, tiến hành thanh tra, kiểm tra, phòng ngừa, khắc phục các bất cập, sự cố xảy ra cũng cần hết sức phải quan tâm;

(iii) Tiếp tục thúc đẩy việc sản xuất vaccine trong nước một cách có hiệu quả hơn, tháo gỡ những khó khăn trong quá trình sản xuất vaccine, chỉ có khi nào chủ động được nguồn vaccine trong nước lúc đó mới có thể khẳng định chủ trương thích ứng, “sống chung với Covid-19” được bảo đảm an toàn và hiệu quả;

(iv) Tuyên truyền thật tốt về phòng chống dịch, tiếp tục đề cao ý thức người dân, người dân là mục tiêu, là động lực, là trung tâm, là chủ thể trong phòng, chống dịch.

Thứ hai, tăng cường chính sách kích cầu tiêu dùng nội địa và đầu tư công

- Để đảm bảo kích cầu thị trường tiêu dùng nội địa, cần lưu ý hai hướng cần song song tiến hành: Một mặt, cần đảm bảo đủ nguồn cung hàng hóa phục vụ nhu cầu của người dân ngày càng tăng lên, sau khi thiết lập cơ chế “bình thương mới”; Mặt khác, vẫn cần thiết phải tập trung các giải pháp nhằm bình ổn giá cả, đồng thời triển khai mạnh mẽ các chương trình kích cầu tiêu dùng trong nước, các tháng, đợt khuyến mại tập trung quốc gia... nhằm thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa.

- Đối với chính sách về kích cầu đầu tư công, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chính sách này có ý nghĩa "kép", vừa kích thích chi tiêu đầu tư công tức thời trong gian đoạn ngắn để kích thích tăng trưởng, vừa có ý nghĩa lâu dài tạo ra các kết cấu hạ tầng hiệu quả cho nền kinh tế. Theo đó, Chính phủ sẽ tập trung phát triển các hạ tầng lớn có khả năng thích ứng biến đổi khí hậu, đặc biệt ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời, hoàn thành xây dựng cao tốc Bắc – Nam giai đoạn 2.

Nhóm tác giả đồng tình với mục tiêu tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022 được Quốc hội khóa XV phê duyệt trong Hội nghị lần thứ 2 là 6,0%-6,5%. Con số này phù hợp với khoảng tăng trưởng được phần lớn các tổ chức quốc tế, các các chuyên gia quốc tế, cũng như trong nước đưa ra. Tuy vậy, mục tiêu này đạt được kèm theo những giải pháp đồng bộ và hiệu quả.

Thứ ba, đẩy mạnh hơn các chính sách hỗ trợ DN

Trong thời gian tới, Chính phủ cần phải hỗ trợ thúc đẩy cầu từ khu vực tư nhân để giúp khôi phục kinh tế trong nước và đóng góp cho tăng trưởng. Chính sách này sẽ tập trung vào các giải pháp tài khóa, như: giãn, hoãn, giảm thuế, phí, lệ phí. Theo đó, các chính sách liên quan đã thực hiện trong thời gian vừa qua sẽ được rà soát để tiếp tục thực hiện. Bên cạnh đó, các chính chính sách tiền tệ, như: cho vay ưu đãi thông qua công cụ hỗ trợ lãi suất cũng được triển khai, để có thêm nguồn lực hỗ trợ DN phục hồi và phát triển. Trong năm 2022, Chính phủ nên tung ra các giải pháp kích thích đủ lớn với thủ tục tối giản để chính sách có hiệu ứng lan tỏa sâu rộng, thúc đẩy phục hồi sản xuất của DN và nền kinh tế. Ngoài giải pháp kích thích lãi suất ra, cần có thêm các giải pháp tài chính trực tiếp, có thể Chính phủ đứng ra bảo lãnh cho DN nhỏ và vừa vay, phục hồi việc làm, tài trợ an sinh xã hội. Theo đó, thực hiện nhóm giải pháp này, nhiều nhóm đối tượng bị ảnh hưởng được nghiên cứu và mở rộng thêm.

Thứ tư, tiếp tục phát triển mạnh thương mại điện tử

Ngoài việc coi thương mại điện tử như là lợi thế trong bối cảnh dịch bệnh, thì phát triển thương mại điện tử còn là một trong những lĩnh vực tiên phong của nền kinh tế số. Vì thế, thời gian tới, trước mắt là năm 2022, cần tập trung một số chính sách cho sự phát triển của thương mại điện tử gồm:

- Phát triển hệ sinh thái thương mại điện tử. Cụ thể, trong 5 năm tới, việc xây dựng các chương trình, chính sách đánh giá tín nhiệm website thương mại điện tử - giải pháp “Nền tảng tín nhiệm thương mại điện tử” - công cụ đánh giá các chủ thể kinh doanh thương mại điện tử là rất cần thiết. Việc xếp hạng tín nhiệm này sẽ công bố rộng rãi tới người tiêu dùng để gia tăng niềm tin của khách hàng vào các hoạt động mua bán, thanh toán trong môi trường thương mại điện tử.

- Triển khai Chương trình đồng hành cùng DN trong quá trình ứng dụng thương mại điện tử từ khi bắt đầu đến lúc kinh doanh. Hoạt động này được trên môi trường trực tuyến. Chương trình có sự đồng hành của các tập đoàn viễn thông, công nghệ, hệ thống thương mại điện tử lớn nhất đất nước hiện nay, nhắm đến đối tượng là các nhà sản xuất, kinh doanh, DN, cá nhân trên toàn quốc muốn tiếp cận và ứng dụng thương mại điện tử. Các nhóm giải pháp được đưa ra cụ thể như: triển khai Chương trình hỗ trợ DN lên sàn thương mại điện tử, Chương trình hỗ trợ chi phí chuyển phát, Chương trình dán nhãn chuyển phát an toàn, Chương trình hỗ trợ tài chính cho các DN khi tham gia lên các sàn thương mại điện tử.

Thứ năm, phát triển du lịch thông minh

Đối với một ngành chịu nhiều tổn thương do đại dịch Covid-19 như du lịch, thì sự năng động và sự đổi mới trong kinh doanh là việc cần thiết nhất trong năm 2022 và cả những năm tiếp theo, để du lịch luôn trở thành ngành động lực tăng trưởng của Việt Nam. Triển khai chuyển đổi số chính là giải pháp sớm khắc phục những “tổn thương” nhanh nhất trong tình hình hiện nay. Theo đó, cần triển khai 5 nội dung chuyển đổi số: (i) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong marketing du lịch; (ii) Quản lý và phát triển điểm đến du lịch thông minh; (iii) Phát triển hệ thống thông tin số ngành du lịch và các ứng dụng; (iv) Hỗ trợ các DN, cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch; (v) Tuyên truyền, đào tạo, nâng cao nhận thức về ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành du lịch. Việc áp dụng các ứng dụng công nghệ số tiên tiến sẽ giúp DN hiểu rõ khách hàng, cá nhân hóa các gói dịch vụ và ưu đãi dựa trên sở thích của khách hàng tốt hơn; đồng thời, tiết giảm chi phí, tối đa hóa lợi nhuận, giúp tương tác, chăm sóc khách hàng trực tiếp và từ xa, quy trình làm việc khoa học, nhanh gọn, hiệu suất cao... Thông qua đó, nâng cao sức cạnh tranh của DN du lịch trong nước, tạo ra những thay đổi tích cực hơn cho cả khách hàng và DN du lịch. Ở chiều ngược lại, khách hàng có thể thực hiện một loạt các hoạt động từ việc lên kế hoạch cho chuyến đi, lựa chọn phương tiện di chuyển, đơn vị lữ hành đến đặt phòng khách sạn và nhận ưu đãi sau chuyến đi.../.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quốc hội (2021). Nghị quyết số 32/2021/QH15, ngày 26/11/2021 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022

2. Tổng cục Thống kê (2021). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và cả năm 2021

3. Tổng cục Thống kê (2021). Kết quả khảo sát xu hướng kinh doanh các DN chế biến, chế tạo quý IV

4. Công ty Chứng khoán (SSI) (2021). Sơ lược triển vọng kinh tế vĩ mô và thị trường Việt Nam năm 2022

5. IMF (2021). Báo cáo Triển vọng phát triển kinh tế thế giới 2021

6. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) (2021). Báo cáo cập nhật triển vọng phát triển châu Á

7. Ngân hàng Thế giới (WB) (2021). Báo cáo cập nhật khu vực kinh tế châu Á, Thái Bình Dương

8. Tổng cục Thống kê (2017-2021). Niên giám Thống kê các năm, từ năm 2016 đến 2020, Nxb Thống kê

9. Facebook and Bain & Company (2021). SYNC Southeast Asia

GS, TS. Ngô Thắng Lợi

PGS, TS. Bùi Đức Tuân

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân