Nguyễn Minh Hằng, Email: nguyenminhhang@ufm.edu.vn

Lê Hải Mỹ Duyên, Email: lhmduyen@ufm.edu.vn

Nguyễn Thị Thanh Châu, Email: thanhchau@ufm.edu.vn

Nguyễn Thị Chi, Email: nguyenchi@ufm.edu.vn

Nguyễn Kim Quốc Trung, Email: nkq.trung@ufm.edu.vn

Trường Đại học Tài chính – Marketing

Tóm tắt

Bài viết ước lượng tác động của quản trị doanh nghiệp trong việc điều tiết sự tác động của Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đến Hiệu quả kinh doanh (HQKD) tại các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE). Kết quả nghiên cứu chứng minh CSR tác động cùng chiều đến HQKD và mang ý nghĩa thống kê 5%. Bên cạnh đó, nghiên cứu làm rõ vai trò biến tương tác là Quản trị doanh nghiệp, như: Quy mô hội đồng quản trị (HĐQT), Sự đa dạng về giới tính của các thành viên trong HĐQT và Sự kiêm nhiệm ảnh hưởng đến CSR và HQKD.

Từ khóa: trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp niêm yết, HOSE

Summary

The paper estimates the impact of corporate governance in regulating the impact of corporate social responsibility (CSR) on business performance of companies listed on HOSE. Research results indicate that CSR has a positive impact on business performance with statistically significant at 5%. In addition, the study clarifies the role of interactive variables of corporate governance such as Board size, Gender diversity of members of the Board of Directors and Concurrentity that affect CSR and business performance.

Keywords: corporate social responsibility, business performance, listed companies, HOSE

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tại Việt Nam, phát triển bền vững ngày càng được các công ty và các bên liên quan trong một số công ty niêm yết, như: Tập đoàn Bảo Việt (BVH), Tổng công ty Khoan và Dịch vụ khoan Dầu khí Việt Nam (PVD), Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (VNM) quan tâm nhiều hơn. Bằng chứng chứng minh rằng, các công ty này đã công bố Báo cáo Phát triển Bền vững hàng năm của họ. Bên cạnh đó, CSR còn ảnh hưởng đến tính bền vững mang lại lợi ích cho doanh nghiệp do tác động của các bên liên quan. Hơn nữa, về phía các doanh nghiệp sản xuất, báo cáo CSR có tác động đáng kể đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp (Blasi và cộng sự, 2018; Ehsan và cộng sự, 2018…) và mức độ ảnh hưởng tùy thuộc vào loại hình công nghiệp. Trên thực tế, hầu hết các học giả tập trung vào mối quan hệ giữa CSR và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, nhưng họ vẫn thiếu vai trò đặc trưng của quản trị công ty. Điều đó có nghĩa là vai trò quan trọng của đặc điểm HĐQT và quyền sở hữu của họ ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa CSR và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam.

HĐQT đóng một vai trò quan trọng trong việc thiết lập định hướng công ty của họ trong các hoạt động của công ty. Các hoạt động này tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa CSR và HQKD. Do đó, mối quan hệ giữa các công ty và các bên liên quan của họ, đặc biệt là HĐQT ở Việt Nam, cần được quan tâm đến cách thức không phù hợp để tăng giá trị của công ty và thiết lập chiến lược bền vững. Có thể thấy, đã có nhiều thực nghiệm chứng minh rằng, vai trò quản trị công ty tác động đến CSR và HQKD. Tuy nhiên, nghiên cứu của Việt Nam tập trung vào CSR hoặc CSR đối với HQKD, nhưng vẫn còn thiếu vai trò của quản trị công ty, đặc biệt là các đặc điểm của HĐQT. Mặc dù vậy, chỉ có một số nghiên cứu Việt Nam nhấn mạnh đến các đặc điểm của HĐQT, như: số lượng thành viên HĐQT, sự kiêm nhiệm và đa dạng giới, trong khi các nhà nghiên cứu quốc tế tìm hiểu thêm nhiều đặc điểm của thành viên trong HĐQT để có cái nhìn chung về vai trò quản trị công ty vào mối quan hệ giữa CSR và HQKD. Hơn nữa, hầu hết các nghiên cứu ở Việt Nam đều sử dụng dữ liệu sơ cấp như khảo sát hoặc phỏng vấn. Trong trường hợp, một số nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp đã được thu thập trong một năm, do đó không có thử nghiệm liên tục. Nhóm tác giả vẫn chưa tìm thấy bất kỳ nghiên cứu nào tập trung vào vai trò đặc điểm của quản trị công ty điều tiết đến tác động của CSR đến hiệu quả tài chính trong giai đoạn 2016-2020 trong ngành sản xuất niêm yết. Do đó, nhóm tác giả dựa trên 2 lý thuyết gồm lý thuyết người đại diện và lý thuyết phụ thuộc nguồn lực để nhấn mạnh đặc điểm HĐQT với vai trò điều tiết đến tác động của CSR đến Hiệu quả hoạt động kinh doanh.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHÁT TRIỂN GIẢ THUYẾT

Cơ sở lý thuyết

CSR là một chủ đề rất được quan tâm nghiên cứu gần đây. Có ý kiến cho rằng, việc đưa ra mức CSR cao sẽ hỗ trợ các nhà đầu tư nghĩ rằng, đầu tư vào các công ty thể hiện CSR tốt hơn có thể mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn (Xu và cộng sự, 2014). Ngoài ra, CSR có tác động tích cực đến hiệu quả tài chính trong ngắn hạn và dài hạn (Cho và cộng sự, 2019). CSR là chìa khóa thành công của công ty (Maqbool và Zameer, 2018).

Theo Ahmed và Hamdan (2015), QTDN đề cập đến thỏa thuận giữa các nhà quản lý của công ty và chủ sở hữu của công ty, tập trung vào cách các nhà quản lý tiết lộ thông tin tài chính cho chủ sở hữu. QTDN là một hệ thống nội bộ bao gồm các chính sách, quy trình, con người và phục vụ nhu cầu của cổ đông và các bên liên quan khác, đồng thời chỉ đạo và kiểm soát các hoạt động quản lý một cách khách quan, có trách nhiệm giải trình và liêm chính. Denis và McConnell (2003) cho rằng, QTDN có 2 loại: cơ chế bên trong và cơ chế bên ngoài. Các cơ chế quản trị nội bộ, chẳng hạn, như: HĐQT, cơ cấu sở hữu, sở hữu nội bộ, các gói bồi thường, chính sách nợ và chính sách cổ tức trong khi các cơ chế quản trị bên ngoài, bao gồm các mối đe dọa tiếp quản, cạnh tranh thị trường sản phẩm, thị trường lao động quản lý và giám sát lẫn nhau của các nhà quản lý, các nhà phân tích chứng khoán, môi trường pháp lý và danh tiếng.

Đo lường HQKD đã được thảo luận như một ưu tiên hàng đầu trong tất cả các quyết định tài chính kinh doanh. Hơn nữa, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà quản lý trong việc ra quyết định là quyết định lập kế hoạch, tổ chức và điều hành. Vì vậy, quyết định nên được đưa ra dựa trên các tiêu chí và chỉ số hoạt động của tổ chức. Do đó, các biện pháp kế toán và thị trường là 2 loại chỉ số hoạt động của công ty. Chi tiết hơn, ROA và ROE là các thước đo kế toán phổ biến về hiệu suất hoạt động của công ty, trong khi Tobin's Q phản ánh giá trị công ty dựa trên nhận thức của thị trường. Mặt khác, giả thuyết tối đa hóa giá trị cổ đông cho thấy rằng, giá trị thị trường, được đo bằng Tobin's Q, có thể là thước đo hiệu suất chính xác hơn. Trên thực tế, các thước đo hiệu suất thị trường được cho là đáng tin cậy hơn các thước đo kế toán. Barth (1994) đã so sánh việc công bố giá trị hợp lý (giá trị thị trường) và giá trị lịch sử của chứng khoán đầu tư của các ngân hàng. Tác giả phát hiện ra rằng, giá trị hợp lý của chứng khoán đầu tư có khả năng thay đổi so với giá gốc, bởi vì giá gốc không có khả năng giải thích và không thể hiện giá trị hợp lý nhằm phản ánh chất lượng công bố thông tin. Kết quả là, giá trị thị trường được chấp nhận rộng rãi như là một chỉ số hiệu suất. Tóm lại, Tobin’Q được sử dụng như một đại diện cho giá trị công ty trong nghiên cứu này vì nó đơn giản để tính toán, đáng tin cậy và được sử dụng rộng rãi (Crisóstomo và cộng sự, 2011).

Dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm trước đây, các biến kiểm soát được áp dụng trong nghiên cứu bao gồm: Quy mô doanh nghiệp, Tính thanh khoản, Loại hình công ty kiểm toán, Tổng sản phẩm quốc nội và Tỷ lệ lạm phát có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp (Cho và cộng sự, 2019; Gulzar và cộng sự, 2019…).

Phát triển giả thuyết

Tác động của CSR đến HQKD của doanh nghiệp

Thông qua chỉ số tính CSR theo chuẩn GRI, được đo lường bằng cách cho điểm mục thông tin công bố là 1, mục thông tin không công bố là 0. Sau đó, tính chi tiêu được đo lường chia cho tổng chỉ tiêu. Tác giả sẽ đối chiếu các tiêu chuẩn GRI để phù hợp với Thông tư số 155/2015/TT-BTC, ngày 06/10/2015 về hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán theo khía cạnh môi trường, người lao động và cộng đồng. CSR là một thành phần quan trọng giúp doanh nghiệp đạt được thành công lâu dài (Maqbool và Zameer, 2018). Nghiên cứu thực nghiệm hiện tại hầu như cho thấy, CSR góp phần cải thiện hiệu quả tài chính, chẳng hạn như công bố thông tin minh bạch về hoạt động kinh doanh (El-Garaihy và cộng sự, 2014; Porter và Kramer, 2006), nhằm mục đích xây dựng lòng tin của các bên liên quan (Weber, 2017) và giảm chi phí (Li, Fu và Huang, 2015). Hơn nữa, theo Weber (2017), các công ty có thể duy trì lợi thế cạnh tranh bằng cách đầu tư vào các hoạt động có trách nhiệm xã hội của công ty. Việc công bố CSR, tùy thuộc vào từng loại hình ngành, có tác động đáng kể đến hiệu quả tài chính (Alshehhi và cộng sự, 2018; Blasi và cộng sự, 2018; Ehsan và cộng sự, 2018; Xu và cộng sự, 2014). Do đó, giả thuyết được đưa ra như sau:

H1: CSR có tác động tích cực đến HQKD.

Vai trò điều tiết của các yếu tố thuộc HĐQT

Căn cứ vào cơ sở lý thuyết về QTDN và lược khảo các nghiên cứu trước, QTDN trong nghiên cứu này đề cập đến 2 khía cạnh là đặc điểm HĐQT và cấu trúc sở hữu. Bên cạnh đó, căn cứ vào lý thuyết nền, thì nhóm tác giả chú trọng đến đặc điểm HĐQT bao gồm: Quy mô HĐQT, Sự kiêm nhiệm và Sự đa dạng về giới tính. Nghiên cứu sẽ xem xét vai trò điều tiết của một số đặc điểm HĐQT đến sự ảnh hưởng của CSR đến HQKD.

Thứ nhất, quy mô HĐQT. Lipton và cộng sự (1992) và Jensen (1993) tìm ra mối liên hệ giữa quy mô HĐQT và Hiệu quả tổ chức. Đặc biệt, các thành viên HĐQT nên xác định quy mô HĐQT tỷ lệ thuận với quy mô công ty và phù hợp với bối cảnh kinh doanh Pekovic và Vogt (2021). Theo Ntim và cộng sự (2013), Quy mô HĐQT lớn hơn gắn liền với sự hiện diện của các bên liên quan nhiều hơn, dẫn đến nhu cầu cao hơn đối với các hoạt động CSR khác nhau. Hơn nữa, Quy mô HĐQT lớn hơn quan tâm nhiều hơn đến việc giám sát quản lý và hiệu quả của các cổ đông bằng cách đảm bảo tuân thủ các quy định của công ty, đặc biệt là các hoạt động CSR. Giả thuyết được đưa ra như sau:

H2: Quy mô HĐQT điều tiết tích cực mối quan hệ giữa CSR và HQKD.

Thứ hai, sự kiêm nhiệm. Sự kiêm nhiệm tăng cường tính thống nhất của mệnh lệnh (Garas và cộng sự, 2018). Điều đó có nghĩa là CEO và chủ tịch HĐQT được giữ ở cùng một vị trí. Đồng thời, khẳng định sự kiêm nhiệm đã có tác động đáng kể đến việc tiết lộ CSR trong khu vực Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC). Vì vậy, đặc điểm HĐQT này đóng vai trò quan trọng trong việc giảm khoảng cách về tính hợp pháp thông qua việc công bố thông tin về môi trường và xã hội. Trong nghiên cứu này, sự kiêm nhiệm được đo lường là 1 khi chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc, còn lại là 0. Giả thuyết được đưa ra như sau:

H3: Sự kiêm nhiệm điều tiết tích cực mối quan hệ giữa CSR và HQKD.

Thứ ba, sự đa dạng về giới tính. Theo Ntim và cộng sự (2013) sự đa dạng về giới tính thành viên HĐQT có thể giúp nâng cao hiệu quả bằng cách kết nối công ty với môi trường bên ngoài và thu hút các nguồn lực, cũng như nâng cao tính hợp pháp của công ty. HĐQT sẽ có cái nhìn sâu sắc hơn về tầm quan trọng của các khía cạnh khác nhau của sự đa dạng về giới tính thành viên HĐQT, đặc biệt trong hoạt động CSR và hiệu quả tài chính. Đặc biệt, sự hiện diện của giới tính nữ trong HĐQT có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các, vấn đề CSR và giải quyết tốt hơn các khiếu nại của các bên liên quan (Khan và cộng sự, 2019; Pekovic và Vogt, 2021…). Tuy nhiên, Lim và cộng sự (2019) chứng minh rằng, phụ nữ không có bất kỳ ảnh hưởng nào đến hiệu quả hoạt động của công ty. Điều này dẫn đến xung đột trong ban giám đốc hoặc làm mất đi sự liên lạc giữa giám đốc và người quản lý dựa trên các lĩnh vực nghiên cứu ở Malaysia. Trong nghiên cứu, sự đa dạng giới tính trong HĐQT được đo lường bằng tỷ lệ số lượng thành viên là nữ trong HĐQT. Giả thuyết được đưa ra như sau:

H4: Sự đa dạng giới tính trong HĐQT tác động tích cực đến mối quan hệ giữa CSR và HQKD.

Mô hình nghiên cứu

Dựa trên các nghiên cứu có liên quan, nhóm tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu như Hình.

Hình: Mô hình nghiên cứu

Vai trò của quản trị doanh nghiệp đến mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết tại HOSE

Nguồn: Đề xuất của nhóm tác giả

Phương pháp nghiên cứu

Dữ liệu nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến 2020 và được tiến hành thu thập số liệu thứ cấp của 83 doanh nghiệp niêm yết, nên dữ liệu bảng được sử dụng. Mô hình hồi quy bình phương nhỏ nhất dạng gộp Pooled OLS được thực hiện để tiến hành phân tích hiện tượng đa cộng tuyến, hiện tượng tự tương quan, hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Trường hợp các khuyết tật vẫn tồn tại, phương pháp FEM, REM và FGLS sẽ được dùng thay thế nhằm đảm bảo độ tin cậy của kết quả nghiên cứu (Bài viết sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế). Các yếu tố được đo lượng và trình bày cụ thể trong Bảng 1.

Vai trò của quản trị doanh nghiệp đến mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết tại HOSE

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Thống kê mô tả

Bảng 2: Thống kê mô tả mẫu

Biến

Số quan sát

Giá trị trung bình

Giá trị nhỏ nhất

Giá trị lớn nhất

tobin

415

0.647

0.050

5.320

csr

415

0.876

0.000

1.000

bsize

415

5.682

3.000

10.000

gender

415

0.966

0.000

5.000

ceo

415

0.161

0.000

1.000

size

415

28.238

25.580

32.510

liq

415

1.396

0.090

2.890

audit

415

0.863

0.000

1.000

gdp

415

0.060

0.030

0.070

inf

415

0.034

0.030

0.040

Ghi chú: tobin là HQKD; csr là Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; bod1, bod2, bod3, bod4 là các cụm tương tác; bsize là Quy mô HĐQT; gender là Số lượng thành viên nữ trong HĐQT; ceo là Sự kiêm nhiệm; size là Quy mô doanh nghiệp; liq là Tỷ lệ thanh khoản; audit là Loại hình công ty kiểm toán; gdp là Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội; và inf là Tỷ lệ lạm phát.

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Bảng 2 thể hiện thống kê mô tả mẫu nghiên cứu với số lượng mẫu 415. Yếu tố HQKD được đo lường thông qua chỉ tiêu Tobin’Q. Giá trị lớn nhất là 5.32 và giá trị nhỏ nhất là 0.050. Yếu tố CSR căn cứ vào tiêu chuẩn của GRI và chú trọng đến khía cạnh môi trường, người lao động và cộng đồng địa phương. Những doanh nghiệp có chỉ số CSR cao là 1 là những doanh nghiệp có báo cáo phát triển bền vững, như: VNM, FMC, EVE, PAN, PNJ…, đối với những doanh nghiệp có chỉ số CSR thấp 0 thông thường sẽ rơi vào các doanh nghiệp DCL, FIT, GIL... do có những năm chưa chú trọng đến việc công bố thông tin, nên các nội dung trong báo cáo chưa đáp ứng được các tiêu chí đề ra của CSR.

Các yếu tố thuộc đặc điểm HĐQT, bao gồm: Quy mô HĐQT, Số lượng thành viên nữ trong HĐQT, Sự kiêm nhiệm (CEO). Trong đó, Quy mô HĐQT tùy theo số lượng thành viên HĐQT sẽ giao động từ 3 đến 10 thành viên. Bên cạnh đó, những thành viên HĐQT có sự kiêm nhiệm vừa là giám đốc vừa là chủ tịch HĐQT; trong đó số, lượng thành viên HĐQT có sự kiêm nhiệm chiếm 16% trên tổng quan sát là 415. Ngoài ra, biến sự đa dạng về giới tính, đặc biệt thành viên nữ được cơ cấu là 5 thành viên trong hội động quản trị đối với doanh nghiệp TPC và một số doanh nghiệp chỉ cơ cấu thành viên HĐQT là nam ABT, ACC…

Đối với các biến kiểm soát, Quy mô doanh nghiệp với giá trị giao động từ 25.580 đến 32.510, có giá trị trung bình 28.238. Bên cạnh đó, tỷ lệ thanh khoản với giá trị nhỏ nhất là 0.090 và giá trị lớn nhất là 2.890, giá trị trung bình 1.396, điều này cho thấy các doanh nghiệp sản xuất niêm yết đảm bảo tỷ lệ thanh khoản tốt, có khả năng đảm bảo các khoản nợ đáo hạn trong năm. Trong các doanh nghiệp sản xuất niêm yết, giá trị trung bình 0.863 đơn vị thể hiện đa phần các doanh nghiệp niêm yết kiểm toán báo cáo tài chính bởi các công ty kiểm toán Big4. Khía cạnh quy mô, thì các biến: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội và Tỷ lệ lạm phát thì có giá trị trung bình tương ứng là 0.060 và 0.034.

Kiểm định đa cộng tuyến

Bảng 3: Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Variable

VIF

1/VIF

gdp

1.43

0.699

inf

1.39

0.721

bsize

1.27

0.790

size

1.18

0.846

gender

1.15

0.866

audit

1.14

0.880

ceo

1.12

0.893

csr

1.07

0.932

liq

1.04

0.959

Mean VIF

1.18

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Bảng 3 thể hiện kết quả kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình nghiên cứu. Hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra khi 2 hoặc nhiều yếu tố dự báo trong mô hình có mối tương quan với nhau. Hiện tượng đa cộng tuyến được đo lường bằng các yếu tố lạm phát phương sai (VIF). Trong nghiên cứu này, VIF < 4.0, do đó trong mô hình, các ước lượng của hệ số hồi quy là đáng tin cậy và ổn định. Điều đó dẫn đến kết quả không tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình (Hair và cộng sự, 1985).

Kết quả phân tích tương quan

Bảng 4: Ma trận hệ số tương quan

tobin

csr

bsize

gender

ceo

size

liq

audit

gdp

inf

tobin

1.000

csr

0.283

1.000

bsize

0.229

-0.016

1.000

gender

0.210

-0.010

0.244

1.000

ceo

-0.156

-0.081

-0.097

0.145

1.000

size

0.160

0.144

0.329

0.132

-0.076

1.000

liq

0.170

-0.007

0.020

0.093

0.033

0.007

1.000

audit

0.041

0.165

0.052

-0.166

-0.091

-0.004

-0.131

1.000

gdp

-0.080

-0.069

0.015

-0.047

0.178

-0.028

-0.035

-0.018

1.000

inf

-0.003

-0.023

0.007

-0.016

0.110

-0.005

-0.003

-0.017

0.527

1.000

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Kết quả phân tích (Bảng 4) cho thấy, hệ số tương quan giữa các biến độc lập không quá lớn (< 0.8), cho thấy hiện tượng đa cộng tuyến có khả năng không tồn tại trong mô hình nghiên cứu (Belinda và cộng sự, 2014; Chang và cộng sự, 2017). Đồng thời, ma trận hệ số tương quan còn thể hiện sự tương quan giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập.

Kiểm định phương sai sai số thay đổi

Bảng 5: Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Breusch-Pagan / Cook-Weisberg test for heteroskedasticity

Ho: Constant variance

Variables: fitted values of tobin

chi2(1) = 291.47

Prob > chi2 = 0.0000

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Kết quả kiểm định phương sai sai số thay đổi của mô hình (Bảng 5) cho thấy, giá trị p-values = 0.000 (< 5%), nên giả thuyết H0 bị bác bỏ, vì vậy mô hình có phương sai thay đổi.

Kiểm định hiện tượng tự tương quan

Bảng 6: Kiểm định hiện tượng tự tương quan

Wooldridge autocorrelation in panel data

H0: no first order autocorrelation

F( 1, 82) = 12.243

Prob > F = 0.0008

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Tương tự với kết quả kiểm định phương sai sai số thay đổi, kết quả kiểm định hiện tượng tự tương quan (Bảng 6) cho thấy, với giá trị P-values = 0.003 (< 5%), nên giả thuyết H0 bị bác bỏ, do đó, hiện tượng tự tương quan tồn tại trong mô hình nghiên cứu. Do mô hình vẫn tồn tại các khuyết tật như hiện tượng phương sai sai số thay đổi, hiện tượng tự tương quan, nên phương pháp FEM, REM được sử dụng để khắc phục các khuyết tật trên.

Kiểm định Modified Wald test

Trên cơ sở chọn lựa 3 phương pháp OLS, FEM và REM. Theo đó, mô hình FEM là phù hợp sau các kiểm định. Tuy nhiên, để kết luận mô hình tác động cố định sau cùng có tồn tại hiện tượng phương sai thay đổi, kiểm định Modified Wald test được sử dụng. Kết quả sau đây thể hiện kết quả kiểm định Modified Wald test.

Bảng 7: Kiểm định Modified Wald test

H0: sigma(i)^2 = sigma^2 for all i

chi2 (83) = 39757.71

Prob>chi2 = 0.000

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Kết quả kiểm định Modified Wald test (Bảng 7) cho thấy, giá trị p-value trong kiểm định Modified Wald test = 0.000 (< 5%), nên giả thuyết H0 bị bác bỏ. Điều này dẫn đến hiện tượng phương sai vẫn tồn tại trong mô hình FEM và ước lượng bằng phương pháp này bị chệch và không tin cậy. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả sử dụng phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát khả thi (FGLS) để khắc phục các khuyết tật của mô hình.

Thảo luận kết quả nghiên cứu

Mô hình 1 thể hiện các yếu tố độc lập tác động đến Hiệu quả doanh nghiệp. Tuy nhiên, để làm rõ vai trò tương tác của các biến thuộc QTDN gồm: Quy mô HĐQT, Sự đa dạng về giới tính thành viên HĐQT, Sự kiêm nhiệm đến mối quan hệ CSR và Hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, nhóm tác giả thực hiện mô hình 2. Mô hình 2 là sự điều tiết của các yếu tố thuộc QTDN đến mối quan hệ CSR đến hiệu quả hoạt động với quy ước bod1 là cụm tương tác của CSR - Quy mô HĐQT (CSRxbsize), bod2 là cụm tương tác của CSR - Sự đa dạng về giới tính thành viên HĐQT (CSRxgender), bod3 là cụm tương tác của CSR - Sự kiêm nhiệm (CSRxceo) để làm rõ sự điều tiết của các yếu tố thuộc QTDN.

Bảng 8: Kết quả hồi quy 2 mô hình theo phương pháp FGLS

Mô hình 1

Mô hình 2

tobin

Coef.

P>z

Coef.

P>z

csr

0.962

0.000

-0.339

0.007

bod1

0.262

0.001

bod2

0.846

0.000

bod3

-1.114

0.019

bsize

0.087

0.000

0.005

0.879

gender

0.097

0.000

-0.109

0.015

ceo

-0.167

0.029

0.159

0.218

size

0.037

0.103

0.008

0.715

liq

0.140

0.003

0.096

0.031

audit

-0.059

0.476

-0.090

0.241

gdp

-1.972

0.338

-3.146

0.097

inf

6.441

0.314

6.753

0.252

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả

Kết quả phân tích (Bảng 8) cho thấy, đối với mô hình 1, kết quả hồi quy cho thấy, mô hình có 7 biến độc lập mang ý nghĩa thống kê ở mức 5%, trong đó có 2 biến kiểm soát. Đối với mô hình 2, các cụm tương tác có ý nghĩa thống kê bao gồm: bod1, bod2, bod3, bod4 (bod1 là CSRxbsize, bod2 là CSRxgender, bod3 là CSRxceo). Cụ thể: (i) Đối với cụm tương tác bod1 là CSRxbsize với kết quả = 0.262, có ý nghĩa thống kê là 5%, thì Quy mô HĐQT có tác động tích cực ảnh hưởng của CSR đến HQKD của các doanh nghiệp niêm yết. Theo Theo Pekovic và Vogt (2021), các HĐQT có quy mô lớn hơn sẽ điều tiết tích cực mối quan hệ giữa CSR và Hiệu quả tài chính. Quy mô HĐQT lớn hơn sẽ giảm thiểu các vấn đề về đại diện và cải thiện hiệu quả nhờ tính minh bạch trong công bố thông tin CSR cao hơn (Esa và Mohd Ghazali, 2012); (ii) Đối với cụm tương tác bod2 là CSRxgender với kết quả = 0.846 có ý nghĩa thống kê là 5%, thì Sự đa dạng về giới tính thành viên HĐQT có tác động tích cực ảnh hưởng của CSR đến HQKD của các doanh nghiệp niêm yết. Sự hiện diện của giới tính nữ trong HĐQT có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các vấn đề CSR và giải quyết tốt hơn các khiếu nại của các bên liên quan (Khan và cộng sự, 2019; Harjoto và cộng sự, 2015…). Theo Pekovic và Vogt (2021). Nhấn mạnh về sự đa dạng của HĐQT đóng vai trò thiết yếu trong việc ảnh hưởng đến mối quan hệ CSR và giá trị công ty dưới sự đa dạng về giới tính trong HĐQT (Lim và cộng sự, 2019). Ngoài ra, HĐQT càng đa dạng, thì càng có thể đại diện và phục vụ tốt hơn cho nhiều bên liên quan, điều này cuối cùng sẽ dẫn đến CSR tốt hơn (Gulzar và cộng sự, 2019); (iii) Đối với cụm tương tác bod3 là CSRxceo với kết quả = -1.114 có ý nghĩa thống kê là 5%, thì Sự kiêm nhiệm có tác động tiêu cực ảnh hưởng của CSR đến HQKD của các doanh nghiệp niêm yết. Fama và Jensen (1983) chỉ ra rằng, sự kiêm nhiệm giữa chủ tịch HĐQT và giám đốc sẽ làm giảm sự tách biệt, kiểm soát lẫn nhau, cũng như sự đưa ra quyết định. Khi có sự kiêm nhiệm xảy ra, thì sẽ làm ảnh hưởng đến việc QTDN do không có sự tách biệt giữa nhà quản lý và người đại diện (Boyd, 1995).

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý GIẢI PHÁP

Kết quả nghiên cứu cho thấy, CSR tác động cùng chiều và có ý nghĩa thống kê đến HQKD của doanh nghiệp niêm yết. Khi xem xét vai trò điều tiết của các biến QTDN, thì thể hiện rằng có tác động đến CSR để cải thiện HQKD. Trên cơ sở những kết quả đạt được, nhóm tác giả đề xuất một số hàm ý giải pháp sau:

Thứ nhất, ở khía cạnh vai trò quản lý đóng vai trò quan trọng để hướng doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ cũng như công bố thông tin liên quan đến CSR.

Thứ hai, ở góc độ các cổ đông hoặc chủ sở hữu cần có sự kiểm soát, hoạt động của doanh nghiệp, cũng như xem xét việc thực hiện CSR, đặc biệt là đối với HĐQT là người đại diện cho cổ đông để giám sát các nhà quản lý/giám đốc thực thi các hoạt động, điều hành doanh nghiệp. Do đó, nghiên cứu khuyến nghị doanh nghiệp cần xem xét các yếu tố trên như việc gia tăng số lượng thành viên HĐQT để có thể tận dụng nguồn lực của các thành viên giám đốc này cũng như cần có sự cân bằng hoặc cải thiện hơn về số lượng nữ giới trong HĐQT.

Thứ ba, phân tích thực trạng xã hội để áp dụng các chiến lược CSR phù hợp. Kết hợp các hoạt động CSR vào xây dựng chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp theo các thông lệ quốc tế như phát triển bền vững. Đồng thời, xác định các lĩnh vực ưu tiên khi thực thi CSR, từ đó đánh giá tác động của CSR lên thực hiện các chiến lược của công ty. Nói cách khác, nghiên cứu từng khía cạnh cụ thể để thấy được tác động của CSR lên hiệu quả doanh nghiệp trong ngắn hạn, dài hạn.

Thứ tư, trong đánh giá chỉ số CSR, thì hầu hết các doanh nghiệp chú trọng đến người lao động và cộng đồng, tuy nhiên ở khía cạnh môi trường vẫn chưa được quan tâm. Do đó, doanh nghiệp cần chú trọng đến các khoản chi phí phát sinh liên quan tới môi trường và xử lý các chất thải, xả thải trước khi vào môi trường. Đồng thời, tuân thủ quy định bảo vệ môi trường cũng như quy trình xử lý để đảm bảo chất lượng trước khi xả thải vào môi trường./.

Tài liệu tham khảo

1. Ahmed, E. and Hamdan, A. (2015), The impact of corporate governance on firm performance: evidence from Bahrain Bourse, International Management Review, 11(2), 21-37.

2. Alshehhi, A., Nobanee, H., and Khare, N. (2018), The impact of sustainability practices on corporate financial performance: Literature trends and future research potential, Sustainability, 10(2).

3. Belinda, R.W. and Gary, O. (2015), The accountants’ perspective on sustainable business practices in SMEs, Social Responsibility Journal, 11(3), 641-656.

4. Blasi, S., Caporin, M., and Fontini, F. (2018), A Multidimensional Analysis of the Relationship Between Corporate Social Responsibility and Firms’ Economic Performance, Ecological Economics, 147(3), 218–229, https://doi.org/10.1016/j.ecolecon.2018.01.014.

5 Boyd, B.K. (1995), CEO duality and firm performance: a contingency model, Strategic Management Journal, 16(4), 301-312.

6. Chang, Y. K., Oh, W. Y., Park, J. H., and Jang, M. G. (2017), Exploring the relationship between board characteristics and CSR: Empirical evidence from Korea, Journal of Business Ethics, 140, 225-242.

7. Cho, S. J., Chung, C. Y., and Young, J. (2019), Study on the relationship between CSR and financial performance, Sustainability (Switzerland), 11(2), 1-26, doi:https://doi.org/10.3390/su11020343

8. Crisóstomo, V. L., de Souza Freire, F., and De Vasconcellos, F. C. (2011), Corporate social responsibility, firm value and financial performance in Brazil. Social responsibility journal, 7(2), 295-309.

9. Denis, D.K. and McConnell, J. J. (2003), International corporate governance, The Journal of Financial and Quantitative Analysis, 38(1),1-36.

10. Ehsan, S., Nazir, M. S., Nurunnabi, M., Khan, Q. R., Tahir, S., and Ahmed, I. (2018), A multimethod approach to assess and measure corporate social responsibility disclosure and practices in a developing economy, Sustainability (Switzerland), 8, doi: https://doi.org/10.3390/su10082955.

11. El-Garaihy, W. H., Mobarak, A. K. M., and Albahussain, S. A. (2014), Measuring the Impact of Corporate Social Responsibility Practices on Competitive Advantage: A Mediation Role of Reputation and Customer Satisfaction, International Journal of Business and Management, 124.

12. Garas, S., and ElMassah, S. (2018), Corporate governance and corporate social responsibility disclosures: The case of GCC countries, Critical perspectives on international business, 14(1), 2-26.

13. Gulzar, M. A., Cherian, J., Hwang, J., Jiang, Y., and Sial, M. S. (2019), The impact of board gender diversity and foreign institutional investors on the corporate social responsibility (CSR) engagement of Chinese listed companies, Sustainability, 11(2).

14. Hair Jr, J. F., Anderson, R. E., Tatham, R. L., and Black, W. C. (1995), Multivariate Data Analysis, 3rd Edn New York. NY: Macmillan Publishing Company.

15. Harjoto, M. A., and Jo, H. (2015), Legal vs. normative CSR: Differential impact on analyst dispersion, stock return volatility, cost of capital, and firm value, Journal of Business Ethics, 128, 1-20.

16. Jensen, M.C. (1993), The modern industrial revolution, exit, and the failure of internal control systems, The Journal of Finance, 48(3), 831-880.

17. Khan, I., Khan, I., and Senturk, I. (2019), Board diversity and quality of CSR disclosure: evidence from Pakistan, Corporate Governance: The International Journal of Business in Society, 19(6), 1187-1203.

18. Li, Y., Fu, H., and Huang, S. S. (2015), Does conspicuous decoration style influence customer's intention to purchase? The moderating effect of CSR practices, International Journal of Hospitality Management, 51, 19-29.

19. Lim, K. P., Lye, C.-T., Yuen, Y. Y., and Teoh, W. M. Y. (2019), Women directors and performance: evidence from Malaysia. Equality, Diversity and Inclusion: An International Journal, 38(8), 841–856, https://doi.org/10.1108/edi-02-2019-0084.

20. Lipton, M. and Lorsch, J.W. (1992), A modest proposal for improved corporate governance, The business lawyer, 59-77.

21. Maqbool, S., and Zameer, M. N. (2018), Corporate social responsibility and financial performance: An empirical analysis of Indian banks, Future Business Journal, 4(1), 84-93.

22. Ntim, C. G., and Soobaroyen, T. (2013), Corporate Governance and Performance in Socially Responsible Corporations: New Empirical Insights from a Neo-Institutional Framework, Corporate Governance: An International Review, 21(5), 468–494.

23. Pekovic, S., and Vogt, S. (2021), The fit between corporate social responsibility and corporate governance: the impact on a firm’s financial performance, Review of Managerial Science, 15(4), 1095-1125.

24. Porter, M. E., and Kramer, M. R. (2006), The link between competitive advantage and corporate social responsibility, Harvard business review, 84(12), 78-92.

25. Weber, O. (2017), Corporate sustainability and financial performance of Chinese banks, Sustainability Accounting, Management and Policy Journal, 8(3), 358-385.

26. Xu, S., Liu, D., and Huang, J. (2014), Corporate social responsibility, the cost of equity capital and ownership structure: An analysis of Chinese listed firms. Australian Journal of Management, 40(2), 245–276, doi:10.1177/0312896213517894.

Ngày nhận bài: 14/4/2024; Ngày phản biện: 24/4/2024; Ngày duyệt đăng: 07/5/2024