Giai đoạn 2021-2023: GDP Việt Nam có thể tăng tới 6,76%/năm
Khi ấy, kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi tăng trưởng nhanh và bền vững hơn, ngay cả khi kinh tế thế giới còn nhiều bất định.
Việt Nam cần xây dựng một kế hoạch dài hơi hơn, tránh rủi ro “cạn kiệt ” không gian chính sách
Việt Nam tương đối thành công trong kiểm soát COVID-19
Tại Hội thảo “Thúc đẩy phục hồi kinh tế và cải cách thể chế sau đại dịch COVID-19: Đề xuất cho Việt Nam” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức với sự hỗ trợ của Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) và Đại sứ quán Australia tại Việt Nam, ngày 22/4/2021, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM, Giám đốc Chương trình Aus4Reform chỉ rõ, đại dịch COVID-19 từ đầu năm 2020 đã có những tác động bất lợi, sâu rộng, cả trực tiếp và gián tiếp đối với kinh tế toàn cầu.
Kể từ đầu năm 2020, Việt Nam cũng đối mặt với hai làn sóng bùng phát của đại dịch COVID-19. Với phản ứng quyết liệt và khá sớm, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia được đánh giá là tương đối thành công trong kiểm soát COVID-19. Công tác chỉ đạo và điều hành của Chính phủ đã thể hiện những bước chuyển phù hợp, linh hoạt, song kiên định với “mục tiêu kép”, vừa quyết liệt phòng chống dịch hiệu quả; vừa tập trung phục hồi và thúc đẩy sản xuất trong nước. Các cải cách về môi trường kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp... tiếp tục có sự liền mạch với các năm trước. Các giải pháp hỗ trợ nền kinh tế mới tiếp tục được nghiên cứu, cân nhắc, bên cạnh việc rà soát, điều chỉnh quy định liên quan đến tiếp cận một số gói hỗ trợ trước đó (về tín dụng, thuế, an sinh xã hội...).
Với việc tiếp tục kiểm soát tốt dịch bệnh trong những tháng đầu năm 2021, các hoạt động kinh tế-xã hội trong cả nước tiếp tục đà phục hồi. Hoạt động tiêm vắc-xin đã dần được triển khai. Nhiều thảo luận xoay quanh mở lại các đường bay quốc tế, “hộ chiếu vắc-xin”... được đề cập gần đây nhằm hướng đến mở cửa trở lại nền kinh tế một cách an toàn, hay sự đồng bộ và bền vững của chính sách hỗ trợ phục hồi một số ngành, lĩnh vực quan trọng cũng như tổng thể nền kinh tế.
Ngay trong bối cảnh đại dịch, Việt Nam vẫn chứng kiến những diễn biến khá sôi động về hội nhập kinh tế quốc tế (như phê chuẩn và thực thi EVFTA, EVIPA, UKVFTA hay ký kết RCEP) và những dấu ấn về hoạt động đối ngoại của Việt Nam như vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA 41 và Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
Công tác điều hành của Chính phủ kể từ năm 2020 có những điểm tích cực như: (i) có sự chủ động, có được sự tham gia, đồng thuận cao của cộng đồng doanh nghiệp và người dân; (ii) duy trì sự bài bản, gắn với việc cập nhật và đánh giá các kịch bản tăng trưởng, đặc biệt lưu tâm đến diễn biến đại dịch COVID-19; (iii) giữ được dư địa chính sách để ứng phó với các kịch bản trong tương lai; và (iv) không ngừng tạo dựng thêm không gian mới cho hoạt động kinh tế mới.
Theo đó, Việt Nam có tốc độ tăng GDP đạt 2,91% trong năm 2020, và phục hồi ở mức 4,48% trong quý I/2021.
Các tổ chức quốc tế đều duy trì đánh giá tích cực về kinh tế Việt Nam. Dù còn thấp hơn so với trước đại dịch COVID-19, kết quả tăng trưởng này của Việt Nam cao hơn so với kết quả báo cáo của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới, kể cả khu vực Đông Á.
Từ năm 2020, khu vực doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do chịu ảnh hưởng trực tiếp từ dịch COVID-19. Tuy số doanh nghiệp thành lập mới trong cả năm 2020 giảm 2,3% so với 2019 nhưng tổng vốn đăng ký tăng 29,2%, cho thấy quy mô của doanh nghiệp gia nhập thị trường có xu hướng tăng lên. Doanh nghiệp cũng có sự thích ứng, cả về tổ chức sản xuất, sử dụng lao động, và ứng dụng các mô hình, cách thức kinh doanh mới (đặc biệt gắn với nền tảng số).
Tổng vốn phát triển toàn xã hội theo giá hiện hành năm 2020 tăng 5,7%, thấp hơn 4,5 điểm phần trăm so với năm 2019. Tỷ trọng đầu tư/GDP năm 2020 đạt 34,4%. Hiệu quả đầu tư tính theo hệ số ICOR sụt giảm đột ngột trong năm 2020, hệ số ICOR tăng tới gần 14,3. Vốn FDI đăng ký đạt 28,5 tỷ USD, giảm 25%; vốn FDI thực hiện đạt 19,98 tỷ USD.
Ngân hàng Nhà nước cũng thực hiện hiệu quả chính sách tiền tệ nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời kiên định với yêu cầu ổn định lạm phát. Điều hành chính sách tỷ giá tiếp tục hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô, và được giải trình thường xuyên, minh bạch.
Tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế có xu hướng giảm dần, chất lượng tín dụng cải thiện khi dòng vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực kinh doanh và sản xuất ưu tiên. Năm 2020, tăng trưởng tín dụng đạt 12,13%, phù hợp với định hướng của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước khi hạ lãi suất cho vay, tập trung tín dụng cho các lĩnh vực kinh doanh và xuất khẩu trong đại dịch COVID-19.
Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam ít nhiều thể hiện sức chống chịu cao hơn trong giai đoạn 2018-2020. Bên cạnh những nỗ lực thích ứng của khu 4 vực doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp trong nước, sức chống chịu tốt hơn của nền kinh tế còn xuất phát một phần từ việc kiên định thực hiện các biện pháp cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Độ mở thương mại của Việt Nam giữ xu hướng tăng. Hoạt động thương mại điện tử là điểm sáng trong năm 2020, với doanh số tăng 25%.
Đại dịch COVID-19 đã tác động nặng nề tới nhiều ngành nghề trong xã hội, đặc biệt là du lịch. Tuy vậy, năm 2020 cũng ghi nhận một số ngành sản xuất có tăng trưởng nổi bật như sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu; hay sự phát triển một số ngành nghề mới như dịch vụ số, thương mại điện tử, sản xuất khẩu trang và đồ bảo hộ y tế.
Vẫn kiên định với các yêu cầu bứt phá và ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô
TS. Trần Thị Hồng Minh khẳng định, Việt Nam, trước đại dịch COVID-19, vẫn kiên định với các yêu cầu bứt phá và ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách sâu rộng kinh tế vi mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế. Tư duy ban hành chính sách đã có những chuyển biến theo hướng tôn trọng tinh thần tự do kinh doanh, chuyển từ “chọn cho” sang “chọn bỏ” và được cụ thể hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Việt Nam cũng nhấn mạnh việc tìm kiếm các động lực mới cho tăng trưởng kinh tế. Công tác hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều chuyển biến, nổi bật với việc ký kết CPTPP, EVFTA và EVIPA trong năm 2019.
Tuy vậy, cải cách và điều hành chính sách vẫn bộc lộ một số hạn chế như: cải cách nền tảng kinh tế vi mô mới chỉ tập trung vào gia nhập thị trường; động lực thực thi vẫn là một vấn đề cần cải thiện.
“Mặc dù được đánh giá là một trong số ít các quốc gia thành công trong việc kiểm soát dịch bệnh, tạo tiền đề cho phục hồi và thúc đẩy sản xuất trong nước, tái mở cửa kinh tế một cách an toàn, Việt Nam cũng cần xây dựng một kế hoạch dài hơi hơn, tránh rủi ro “cạn kiệt ” không gian chính sách và giảm động lực cải cách thể chế kinh tế. Dưới góc nhìn của chúng tôi, nếu nền kinh tế chậm phục hồi, cải cách thể chế kinh tế cũng sẽ thiếu sự đồng thuận và động lực cần thiết và/hoặc không tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế”, bà Trần Thị Hồng Minh nhấn mạnh.
3 kịch bàn kinh tế giai đoạn 2021-2030
“Nếu đạt được những đột phá trong chất lượng cải cách thể chế dẫn tới cải thiện chất lượng tăng trưởng song hành với các biện pháp nới lỏng tài khóa và tiền tệ đúng trọng tâm, đúng thời điểm, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình có thể đạt tới 6,76%/năm giai đoạn 2021-2023, đi kèm với cải thiện đáng kể về năng suất. Khi ấy, kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi tăng trưởng nhanh và bền vững hơn, ngay cả khi kinh tế thế giới còn nhiều bất định”, người đứng đầu CIEM nhận định.
Trên cơ sở nghiên cứu của nhóm chuyên gia CIEM, bà Minh cho biết, triển vọng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021-2023 được đánh giá dựa trên 3 kịch bản.
Chính việc bảo đảm các chính sách phục hồi kinh tế và cải cách thể chế kinh tế song hành và hài hòa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, dù cũng là một yêu cầu rất thách thức. Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu Tổng hợp (CIEM) cho biết, Hội thảo “Thúc đẩy phục hồi kinh tế và cải cách thể chế sau đại dịch COVID-19: Đề xuất cho Việt Nam” nhấn mạnh lại thông điệp phục hồi kinh tế phải song hành với cải cách thể chế kinh tế ở Việt Nam.
Những thành công nhất định trong chỉ đạo và điều hành của Chính phủ từ năm 2020 cho đến nay, thể hiện ở những bước chuyển phù hợp, linh hoạt, những phản ứng chính sách kịp thời hay hướng nhiều hơn tới chủ động quản trị bất định đã góp phần vào thành công của kiểm soát đại dịch COVID-19. Chính ở đây, việc đảm bảo các chính sách phục hồi kinh tế và cải cách thể chế có sự song hành và hài hòa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
"Đồng thời, chúng tôi sẽ làm rõ một số yêu cầu để bảo đảm các chính sách hướng tới phục hồi kinh tế có sự gắn bó mật thiết với cải cách thể chế kinh tế ở Việt Nam trong thời gian tới", ông Dương nói. “Từ nghiên cứu, tham vấn với các bên, Báo cáo của chúng tôi cũng đề xuất định hướng và lộ trình chính sách cho giai đoạn 2021-2023. Tôi hy vọng báo cáo này sẽ đưa ra một góc nhìn, những đầu vào để Chính phủ cân nhắc, xây dựng kế hoạch hành động trong thời gian tới”.
Bên cạnh đó, vị chuyên gia này cũng cho rằng, trong thời gian tới, cần giữ được mạch cải cách; Các mô hình kinh tế mới và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thích ứng (đẩy nhanh những yêu cầu cải cách được xác định từ trước 2020); Hỗ trợ để giảm khó khăn cho doanh nghiệp và người dân.
“Đặc biệt, cần giữ được dư địa để ứng phó với các kịch bản sau này”, thay mặt nhóm nghiên cứu, ông Dương đề xuất./.
Bình luận