Nước ta đang thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, trong đó có Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTTP) và Hiệp định Thương mại tự do Liên minh Châu Âu - Việt Nam (EVFTA). Các hiệp định này có những quy định mới về thương mại và đầu tư so với một số FTA mà nước ta đang tham gia. Điều này vừa tạo cơ hội mới, vừa là thách thức đối với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam.

TỔNG QUAN VÀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH CPTPP và EVFTA

Tổng quan về CPTPP và EVFTA

Thu hút FDI trong bối cảnh thực thi hiệp định CPTPP, EVFTA cùng các FTA thế hệ mới
GS, TSKH. Nguyễn Mại cho rằng, để tận dụng hiệu quả tối ưu từ thu hút FDI, các doanh nghiệp cần phải thay đổi tư duy và hành động của nhà quản trị và người lao động...

CPTPP gồm 11 nước đồng sáng lập là: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mehico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam; trong đó, Brunei, Malaysia và Singapore thuộc Cộng đồng ASEAN, Nhật Bản và Australia là những đối tác truyền thống về thương mại và đầu tư; Canada và Mehico là 2 thị trường có tiềm năng lớn; Chile, Peru và New Zealand là 3 nước nhỏ, cách trở về địa lý, nên khả năng phát triển quan hệ kinh tế có giới hạn.

Khác với việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và một số FTA, nước ta tham gia soạn thảo CPTPP, do đó, chủ động trong các vòng đàm phán để bảo vệ lợi ích quốc gia trong quan hệ với các nước thành viên khác. Với tư cách là nước có thu nhập trung bình (thấp), Việt Nam được hưởng một số ưu đãi riêng của CPTPP.

CPTPP tạo ra cơ hội mới cho doanh nghiệp nước ta mở rộng thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, có điều kiện lựa chọn nhà đầu tư tiềm năng và tìm kiếm dự án đầu tư tại các nước thành viên do gỡ bỏ 95% sắc thuế hải quan của thị trường khoảng 500 triệu người, chiếm 12,9% GDP toàn cầu và 14,9% kim ngạch thương mại thế giới.

CPTPP cũng đặt ra thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam trong quan hệ thương mại và đầu tư với các nước thành viên khác do phải đáp ứng các tiêu chuẩn cao hơn của thương mại và đầu tư bền vững, phù hợp với kinh tế xanh, ít phát thải khí nhà kính. Về đầu tư, CPTPP đặt ra yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh bạch hóa, các quy định về sở hữu trí tuệ, cơ chế giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc và chặt chẽ. CPTPP quy định những tiêu chuẩn cao về thể chế, luật pháp, quản lý nhà nước gây áp lực cải cách thể chế theo chuẩn mực quốc tế, đơn giản hóa thủ tục hành chính.

Với EVFTA, Hiệp định này nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam với Cộng đồng châu Âu gồm 27 quốc gia, gần 448 triệu người, GDP năm 2020 là 15,193 nghìn tỷ USD, chiếm 14,7% tổng GDP toàn cầu. Từ khi EVFTA có hiệu lực, Liên minh châu Âu (EU) sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU; sau 7 năm sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đối với khoảng 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại, EU cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%.

Thời gian cắt giảm thuế quan đối với hàng nhập khẩu của Việt Nam từ EU chậm hơn; Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu với 48,5% số dòng thuế, tương đương 64,5% kim ngạch nhập khẩu; sau 7 năm sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu 91,8% số dòng thuế, tương đương 97,1% kim ngạch nhập khẩu từ EU; sau 10 năm sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu khoảng 98,3% số dòng thuế, tương đương 99,8% kim ngạch nhập khẩu. Đối với khoảng 1,7% số dòng thuế còn lại của EU, lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu dài hơn 10 năm hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan theo cam kết WTO.

Hiệp định Bảo hộ đầu tư EU - Việt Nam (EVIPA) ngoài những nội dung như các hiệp định bảo hộ đầu tư khác mà Việt Nam đã ký kết, còn khẳng định nguyên tắc phát triển bền vững, như: thu hút đầu tư đảm bảo duy trì mức độ bảo vệ môi trường, cam kết chống biến đổi khí hậu, bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học, bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên rừng, nguồn tài nguyên sinh vật biển, khuyến khích thương mại và đầu tư hướng tới phát triển bền vững.

Cũng như CPTPP, EVFTA và EVIPA bao gồm: thương mại hàng hóa (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT), thương mại dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, các vấn đề pháp lý, thể chế.

Việt Nam và các đối tác cam kết về thương mại dịch vụ, đầu tư nhằm tạo ra môi trường đầu tư cởi mở, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp hai bên, thống nhất các nội dung tương đương với Hiệp định mua sắm Chính phủ (GPA) của WTO. Với một số nghĩa vụ, như: đấu thầu qua mạng, thiết lập cổng thông tin điện tử để đăng tải thông tin đấu thầu, Việt Nam có lộ trình để thực hiện.

Các cam kết về sở hữu trí tuệ của Việt Nam gồm: cam kết về bản quyền, phát minh, sáng chế, cam kết liên quan tới dược phẩm và chỉ dẫn địa lý về cơ bản phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.

Kết quả thu hút FDI trong bối cảnh thực hiện CPTPP, EVFTA

Hiệp định EVFTA có hiệu lực từ ngày 01/08/2020 đã mang lại nhiều tín hiệu sáng cho hoạt động thu hút FDI của Việt Nam. Năm 2021, trong bối cảnh dịch Covid-19 gây thiệt hại nặng nề đối với sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hộ kinh doanh, hàng trăm nghìn người lao động mất việc làm, thu nhập giảm sút, hàng chục triệu người dân sống dựa vào trợ cấp xã hội. Cùng với các FTA khác, EVFTA đã tác động tích cực đến tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam, trong đó, FDI và thương mại quốc tế là hai mảng sáng trong bức tranh kinh tế.

Số liệu thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy, tính đến ngày 20/12/2021, vốn đăng ký mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2%; vốn thực hiện đạt 19,74 tỷ USD, giảm 1,2% so với năm 2020. Có 1.738 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, giảm 31,1%; vốn đăng ký đạt 15,2 tỷ USD, tăng 4,1%. Có 985 lượt dự án điều chỉnh, giảm 13,6%; vốn đầu tư đạt 9 tỷ USD, tăng 40,5%. Có 3.797 lượt góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, giảm 38,2%, vốn góp đạt 6,9 tỷ USD, giảm 7,7% so với cùng kỳ.

Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với vốn đăng ký 18,1 tỷ USD, chiếm 58,2%; sản xuất, phân phối điện đứng thứ hai với 5,7 tỷ USD, chiếm 18,3% ; kinh doanh bất động sản đứng thứ ba với 2,6 tỷ USD, chiếm 8,3%; bán buôn, bán lẻ đứng thứ tư với 1,4 tỷ USD, chiếm 1,45% tổng vốn đăng ký. Hải Phòng là địa phương dẫn đầu trong thu hút FDI với vốn đăng ký 5,26 tỷ USD, chiếm 16,9%, Long An thứ hai với 3,84 tỷ USD, chiếm 12,3%, TP. Hồ Chí Minh thứ ba với 3,74 tỷ USD, chiếm 12% tổng vốn đăng ký.

Một số dự án FDI quy mô lớn tiếp tục được cấp phép trong giai đoạn này, như: Dự án Nhà máy điện LNG Long An I và II (Singapore) vốn đăng ký 3,1 tỷ USD với mục tiêu sản xuất, truyền tải và cung ứng điện; Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản) vốn đăng ký 1,31 tỷ USD với mục tiêu sản xuất, cung ứng điện; Dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc) điều chỉnh tăng vốn đầu tư 2,15 tỷ USD; Dự án Nhà máy Công ty TNHH Polytex Far Eastern Việt Nam (Đài Loan) điều chỉnh tăng vốn đầu tư 610 triệu USD.

Đáng chú ý, kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI đạt 247,54 tỷ USD, tăng 21,1% so với năm 2020, chiếm 73,6% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Kim ngạch nhập khẩu của khu vực FDI đạt 218,18 tỷ USD, tăng 21,9% so với 2020, chiếm 65,7% kim ngạch nhập khẩu cả nước; xuất siêu gần 29,36 tỷ USD, bù được nhập siêu 25,36 tỷ USD của doanh nghiệp trong nước, tạo ra xuất siêu 4 tỷ USD, mặc dù chưa bằng năm 2020, nhưng là 6 năm liền Việt Nam xuất siêu. Đóng góp của khu vực FDI đã đưa tổng kim ngạch thương mại hàng hóa Việt Nam vượt 668,5 tỷ USD, thuộc 20 quốc gia hàng đầu thương mại quốc tế năm 2021.

Tính lũy kế đến ngày 20/12/2021, Việt Nam còn 34.527 dự án FDI có hiệu lực với vốn đăng ký 408,1 tỷ USD, vốn thực hiện 251,6 tỷ USD, bằng 61,7% vốn đăng ký. Nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân; trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo đứng đầu với 241,9 tỷ USD, chiếm 59,3%; kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với 61,8 tỷ USD, chiếm 15,1%; sản xuất, phân phối điện đứng thứ ba với 33,9 tỷ USD, chiếm 8,3% tổng vốn đăng ký.

Kể từ khi EVFTA có hiệu lực, vốn đăng ký FDI từ các nước EU vào Việt Nam từ tháng 8/2020 đến 8/2021 đạt hơn 1 tỷ USD, chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp công nghệ cao, chưa đáp ứng được mục tiêu của EVIPA. Do tác động từ tăng trưởng thương mại 2 chiều, nên 6 tháng cuối năm 2021, đã có một số dự án FDI quy mô lớn từ EU vào Việt Nam đã được ký kết. Dự báo về trung hạn và dài hạn, sẽ gia tăng đáng kể các dự án lĩnh vực dịch vụ, như: bưu chính viễn thông, tài chính, văn phòng cho thuê, bán lẻ, năng lượng sạch, công nghiệp phụ trợ, chế biến thực phẩm, dược phẩm, nông nghiệp công nghệ cao, thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ EU vào Việt Nam.

Tuy nhiên, không như EVFTA, FDI trong năm đầu thực thi CPTPP lại không mấy khả quan. Năm 2019, Việt Nam thu hút xấp xỉ 9,5 tỷ USD vốn FDI từ các nước CPTPP, giảm gần 36% so với năm 2018; năm 2020, kết quả khả quan hơn, đạt 11,8 tỷ USD, tăng 24,4% so với năm 2019. Như vậy, s au 2 năm thực thi CPTPP, vốn FDI từ các nước thành viên vào Việt Nam đạt gần 21,3 tỷ USD, trong đó, Singapore đạt 13,5 tỷ USD, Nhật Bản 6,5 tỷ USD.

Xét về tốc độ, vốn FDI từ các nước thành viên CPTPP giảm mạnh đối với các đối tác truyền thống, như: Australia (giảm gần 63%), Malaysia (giảm 50%); nhưng tăng nhanh đối với các đối tác mới, như: Canada, Mexico, tuy vậy, quy mô dự án khá nhỏ.

GIẢI PHÁP TẬN DỤNG CPTPP, EVFTA VÀ CÁC FTA KHÁC

Triển vọng

Báo cáo Đầu tư thế giới (World Investment) 2021 của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNCTAD) cho biết: nếu như trước đại dịch Covid-19, năm 2019, FDI toàn cầu đạt 1.500 tỷ USD, thì năm 2020 đã giảm xuống còn 1.000 tỷ USD, năm 2021 dự báo tăng nhẹ lên 1.100-1.200 tỷ USD.

Còn theo Báo cáo Đầu tư ASEAN 2020-2021 của Ban Thư ký ASEAN và UNCTAD (ASEAN Invesment Report 2020-2021), FDI của ASEAN năm 2019 đạt 192 tỷ USD, chiếm 11,9%, sang năm 2020 đạt 137 tỷ USD, giảm 25% so với 2019, chiếm 13,7% FDI toàn cầu. Dự báo FDI vào các nước Châu Á năm 2021 tăng 5%-10%, trong đó một số nước lớn của ASEAN đóng góp quan trọng.

UNCTAD dự báo do dịch bệnh được kiểm soát tốt, nhiều nước ban hành cơ chế, chính sách mới ưu đãi đầu tư nên FDI toàn cầu năm 2022 có thể khôi phục mức năm 2019. Nguồn vốn FDI vào châu Á, trong đó có một số nước lớn trong ASEAN, có thể đạt mức cao hơn năm 2021.

Một số tổ chức quốc tế, như: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã nhận định khá lạc quan về triển vọng khôi phục và phát triển kinh tế Việt Nam năm 2022, với dự báo tốc độ tăng GDP đạt 6,5%- 6,8%. Các nhà đầu tư quốc tế coi Việt Nam là đối tác quan trọng về thương mại và đầu tư.

Năm 2022, cùng với việc triển khai thực thi CPTPP và EVFTA, Việt Nam cũng sẽ tiếp tục thực hiện một số FTA thế hệ mới khác, nhiều doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI đã tích lũy được kinh nghiệm trong thương mại với những đối tác của FTA thế hệ mới, nên đã chuẩn bị điều kiện để mở rộng quan hệ song phương trong bối cảnh bình thường mới.

Căn cứ những nhân tố trên đây và kết quả thực hiện năm 2021, dự báo triển vọng năm 2022 có thể thu hút khoảng 40 tỷ USD vốn FDI đăng ký và 21-22 tỷ USD vốn thực hiện, đạt mục tiêu về số lượng của Nghị quyết số 50 ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030: giai đoạn 2021 - 2025 vốn đăng ký khoảng 30-40 tỷ USD/năm, vốn thực hiện khoảng 20-30 tỷ USD/năm.

Giải pháp tận dụng thực thi hiệu quả các FTA

Trong thời gian tới, cần coi trọng hơn thu hút FDI có chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội theo mục tiêu tại Nghị quyết số 50-NQ/TW. Cụ thể, phấn đấu đạt tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến, quản trị hiện đại, bảo vệ môi trường, hướng đến công nghệ cao tăng 50% vào năm 2025 so với năm 2018; Tỷ lệ nội địa hóa tăng từ 20%-25% hiện nay, lên mức 30% vào năm 2025; Tỷ trọng lao động qua đào tạo trong cơ cấu sử dụng lao động từ 56% năm 2017 tăng lên 70% vào năm 2025.

Về phía Nhà nước

Cần đẩy nhanh cuộc cải cách thể chế để khắc phục những điểm nghẽn đang tác động tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế, thu hút FDI và hoạt động của khu vực kinh tế FDI, như: hoàn thiện và thực thi thể chế, đơn giản hơn nữa thủ tục hành chính, loại bỏ các thủ tục gây phiền hà cho nhà đầu tư và doanh nghiệp, xử lý nghiêm minh và kịp thời mọi vi phạm pháp luật liên quan đến đầu tư, như: đất đai, môi trường, trốn thuế, lậu thuế, chuyển giá, tranh chấp lao động; bảo đảm đáp ứng các yêu cầu của FTA thế hệ mới, như: kinh doanh có trách nhiệm, xóa bỏ lao động cưỡng bức, không sử dụng lao động trẻ em, trả lương theo lao động bình đẳng giới tính.

Các khâu quản lý nhà nước cần được đổi mới toàn diện, như: xúc tiến đầu tư chuyển trọng tâm từ hội nghị, hội thảo sang tiếp cận nhà đầu tư tiềm năng, nhất là các tập đoàn kinh tế lớn; tận dụng FTA thế hệ mới để doanh nghiệp lớn của các nước OECD, châu Âu, Mỹ thực hiện dự án, mà nước ta cần thu hút FDI; đơn giản hóa thủ tục thẩm định; chuyển sang công nghệ số, qua mạng internet để cấp giấy chứng nhận đầu tư trong thời gian ngắn nhất; hướng dẫn, hỗ trợ nhà đầu tư nhất là giải phóng mặt bằng, nhập khẩu trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng để sớm đưa dự án vào vận hành.

Về phía doanh nghiệp

Để vượt qua những thách thức của bối cảnh cạnh tranh toàn cầu cũng như đại dịch, tận dụng hiệu quả tối ưu từ thu hút FDI, các doanh nghiệp cần phải thay đổi tư duy và hành động của nhà quản trị và người lao động tại doanh nghiệp, cần có sự hợp tác hiệu quả của doanh nghiệp lớn, tập đoàn kinh tế, hiệp hội nghề nghiệp, tổ chức tư vấn, trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học với doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), khu vực vốn chiếm phần lớn tỷ trọng doanh nghiệp Việt Nam.

Mặc dù phải đối mặt với những khó khăn trước mắt, nhưng các nhà quản trị doanh nghiệp cần nhận thức rằng, chuyển đổi số là cấu trúc lại doanh nghiệp thích ứng với kinh tế số, chính phủ số, xã hội số, bảo đảm nâng cao hiệu quả kinh tế của đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp, Do đó, không thể chậm trễ trong việc lập kế hoạch và thực thi chuyển đổi số trong quá trình phục hồi và phát triển kinh tế, khi đất nước chuyển sang trạng thái bình thường mới.

Chủ động chuyển sang kinh tế số của Việt Nam không thể coi là thành công nếu không có SME tham gia và thực hiện có kết quả. Do đó, doanh nghiệp lớn và tập đoàn kinh tế, hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức khoa học, giáo dục, tổ chức tư vấn cần coi việc hợp tác và giúp đỡ SME là nhiệm vụ quan trọng để thực hiện định hướng và mục tiêu chuyển đổi số của quốc gia. Họ cần coi đây là nền tảng để các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu, tối ưu hóa hiệu quả thu hút FDI từ các hiệp định FTA thế hệ mới.

Một số hoạt động, như: xúc tiến thương mại và đầu tư, tìm kiếm và cập nhật thông tin thị trường; hoạt động vận động chính sách, doanh nghiệp có thể tự làm một cách đơn lẻ, nhưng rất tốn kém, khó đạt kết quả mong đợi; do đó, việc liên kết cùng hành động với các doanh nghiệp khác trong khung khổ hiệp hội nghề nghiệp, câu lạc bộ là giải pháp hiệu quả trong quá trình thực hiện EVFTA và CPTPP, cũng như thực thi các FTA.

WHO dự báo, dịch Covid-19 có thể được kiểm soát trên phạm vi toàn cầu vào giữa năm 2022, khuyến cáo các quốc gia cần chuyển sang trạng thái bình thường mới, mở cửa với thế giới, phục hồi và phát triển kinh tế. Đó cũng là chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam để vượt qua thách thức trước mắt, tranh thủ cơ hội mới của năm 2022, thu hút FDI và khu vực kinh tế FDI có hiệu quả hơn, đóng góp nhiều hơn vào chuyển dịch sang kinh tế số, thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Kế hoạch 5 năm 2021- 2025./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2021). Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2021

GS, TSKH. Nguyễn Mại

Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE)

Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 2 năm 2022)