Thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay: Một số kết quả và khó khăn
Tóm tắt
Hoạt động thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) ở Việt Nam đã được Đảng ta chú trọng tại các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội kể từ khi đổi mới đến nay. Đặc biệt kể từ Đại hội VIII đến Đại hội XIII, nhiều chủ trương của Đảng ta về kinh tế đối ngoại được bổ sung và cụ thể hóa hơn. Nhờ đó, hoạt động thu hút vốn ĐTNN ở Việt Nam hiện nay đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, hoạt động này cũng gặp nhiều khó khăn. Bài viết sẽ làm rõ một vài thành tựu cơ bản, cũng như khó khăn của hoạt động thu hút vốn ĐTNN ở Việt Nam thời gian qua, từ đó đề xuất một số định hướng, giải pháp để hoạt động này ngày càng hiệu quả hơn.
Từ khóa: đầu tư nước ngoài, thu hút FDI, thành tựu trong thu hút FDI, hạn chế
Summary
The attraction of foreign direct investment (FDI) in Vietnam has been focused by the Party in socio-economic development strategies since Doi Moi. Particularly from the VIII to the XIII National Congress, many of our Party’s policies on foreign economic relations have been supplemented and concretized. As a result, FDI attraction into Vietnam has achieved remarkable achievements. However, this activity also faces many difficulties. The article clarifies some basic achievements, as well as difficulties in FDI atrraction in Vietnam over the years, thereby proposing some orientations and solutions to make this activity more and more effective.
Keywords: foreign investment, FDI attraction, achievements in FDI attraction, limitations
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG THU HÚT VỐN ĐTNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Những thành tựu cơ bản đạt được
Sau hơn 36 năm thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thu hút vốn ĐTNN, khu vực ĐTNN đã ngày càng phát triển, trở thành khu vực năng động nhất trong nền kinh tế và đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội đất nước, thể hiện trên một số mặt chính sau:
(i) ĐTNN là nguồn vốn quan trọng trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội và trở thành một động lực của tăng trưởng kinh tế. Đóng góp của khu vực ĐTNN cho tăng trưởng kinh tế ngày càng cao. Cụ thể, đóng góp của khu vực này vào tăng trưởng kinh tế đã tăng lên từ 2,1% năm 1989 lên 22,3% năm 2020 [3]. Khu vực ĐTNN trở thành động lực quan trọng và ổn định với tốc độ tăng trưởng luôn cao hơn các khu vực kinh tế khác.
Ngoài ra, khối FDI cũng đã thể hiện đóng góp tích cực vào ngân sách và cán cân thanh toán quốc tế.
Thống kê cho thấy, đóng góp của khối ĐTNN vào ngân sách nhà nước tăng nhanh. Giai đoạn 2011-2020, khu vực này chiếm bình quân 28% tổng thu ngân sách nhà nước [3].
Tuy nhiên, từ năm 2020, dưới tác động của đại dịch Covid-19, nguồn vốn ĐTNN có xu hướng giảm cả về vốn đăng ký và dự án cấp mới. Năm 2020, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn, mua cổ phần của nhà ĐTNN là 28,53 tỷ USD, bằng 75% so với cùng kỳ năm 2019. Vốn thực hiện của dự án FDI là 19,98 tỷ USD, bằng 98% so với cùng kỳ năm 2019. Điểm nhấn trong năm 2020 là, mặc dù số dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư là 1.140 lượt, giảm 17,5% so với cùng kỳ năm 2019, nhưng vốn đầu tư điều chỉnh tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt trên 6,4 tỷ USD, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm 2019 [2].
Kết quả thu hút vốn FDI vào Việt Nam lạc quan hơn từ năm 2021. Theo đó, vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn đầu tư đăng ký mới và điều chỉnh đều tăng so với năm 2020, đặc biệt vốn điều chỉnh tăng 40,5%. Vốn FDI thực hiện tại Việt Nam trong năm 2021 ước đạt 19,74 tỷ USD, giảm 1,2% so với năm 2020. Cả nước có 34.527 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 408,1 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án ĐTNN ước đạt 251,6 tỷ USD, bằng 61,7% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực. Số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh và số lượt góp vốn mua cổ phần năm 2021 đều giảm so với năm 2020, chủ yếu tập trung vào nhóm dự án quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD và dưới 1 triệu USD) [1]. Như vậy, việc tăng vốn đầu tư cấp mới, vốn đầu tư điều chỉnh và giảm số lượng dự án cho thấy, quy mô vốn đầu tư bình quân/dự án đầu tư mới cũng như điều chỉnh đều tăng lên so với cùng kỳ năm 2020. Đây được coi là những con số “ấn tượng” trong bối cảnh dòng vốn đầu tư toàn cầu đang sụt giảm mạnh và có nhiều điều chỉnh do tác động từ đại dịch Covid-19.
Tính đến ngày 20/12/2022, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt hơn 27,72 tỷ USD, bằng 89% so với cùng kỳ năm 2021; vốn thực hiện đạt gần 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2021. Có tổng cộng 2.036 dự án FDI mới, tăng 17,1% so với cùng kỳ 2021 với vốn đăng ký đạt hơn 12,45 tỷ USD, giảm 18,4% so với cùng kỳ. 1.107 dự án điều chỉnh vốn đầu tư, tăng 12,4% với tổng vốn góp tăng thêm đạt 10,12 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ. 3.566 lượt góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN, giảm 6,1% so với cùng kỳ, với tổng giá trị vốn góp đạt 5,15 tỷ USD, giảm 25,2% so với cùng kỳ. Tính lũy kế đến ngày 20/12/2022, cả nước có 36.278 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 438,69 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đạt gần 274 tỷ USD, bằng 62,5% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực [1].
(ii) ĐTNN đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hết năm 2022, các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành kinh tế quốc dân. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt hơn 16,8 tỷ USD, chiếm 60,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngành kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư hơn 4,45 tỷ USD, chiếm 16,1%. Tiếp theo lần lượt là các ngành sản xuất, phân phối điện; hoạt động chuyên môn khoa học - công nghệ với vốn đăng ký đạt lần lượt hơn 2,26 tỷ USD và gần 1,29 tỷ USD. Về số lượng dự án mới, các ngành bán buôn, bán lẻ; công nghiệp chế biến, chế tạo và hoạt động chuyên môn khoa học - công nghệ thu hút được nhiều dự án nhất, chiếm lần lượt 30%; 25,1% và 16,3% tổng số dự án [7].
Có thể thấy, sự tập trung vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và một số ngành khác, là nhân tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, góp phần xây dựng môi trường kinh tế năng động và gia tăng năng lực sản xuất các sản phẩm chứa hàm lượng chất xám cao trong nền kinh tế. ĐTNN vào nông nghiệp góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, giúp đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu. Theo đó, ĐTNN cũng đã thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số địa phương; góp phần chuyển đổi không gian phát triển, các khu đô thị mới, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế.
(iii) ĐTNN còn đóng góp quan trọng cho thúc đẩy và mở rộng thị trường xuất khẩu, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và từng bước đưa Việt Nam tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; thực hiện chuyển giao công nghệ ở một số ngành, lĩnh vực và có tác động lan tỏa công nghệ nhất định tới khu vực doanh nghiệp trong nước; thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ...
Tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp ĐTNN trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 26,3% giai đoạn 1989-1996 lên 70,5% giai đoạn 2016-2020. Trong đó, năm 2020 chiếm 71,7%, đạt 202,85 tỷ USD; xuất siêu đạt 33,845 tỷ USD, bù đắp 13,9 tỷ USD nhập siêu của doanh nghiệp trong nước tạo ra kỷ lục xuất siêu 19,9 tỷ USD. Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 246,7 tỷ USD, tăng 20,7% so với năm trước và chiếm 73,6% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, xuất siêu gần 28,5 tỷ USD bù đắp được nhập siêu 25,5 tỷ USD của khu vực doanh nghiệp trong nước tạo ra xuất siêu 3 tỷ USD [3]. Năm 2022, giá trị thương mại, kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI (kể cả dầu thô) ước đạt gần 276,5 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ, chiếm 74,4% kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu ước đạt gần 234,7 tỷ USD, tăng 7,4% so cùng kỳ và chiếm 65,1% kim ngạch nhập khẩu cả nước; xuất siêu 41,8 tỷ USD, bù đắp nhập siêu hơn 30,8 tỷ USD của doanh nghiệp trong nước, tạo ra xuất siêu 11,2 tỷ USD năm 2022 của Việt Nam [2].
(iv) ĐTNN góp phần không nhỏ trong việc tạo ra việc làm cho người lao động. Bên cạnh tạo việc làm trực tiếp, ĐTNN cũng gián tiếp tạo việc làm cho rất nhiều lao động trong các ngành công nghiệp phụ trợ hay các doanh nghiệp khác nằm trong chuỗi cung ứng hàng hóa cho các doanh nghiệp. Đặc biệt, mức lương bình quân của lao động làm việc trong khu vực doanh có vốn ĐTNN cao hơn khu vực nhà nước. Bên cạnh đó, ĐTNN cũng giúp chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam ngày càng được nâng cao cũng nhờ hệ thống đào tạo nội bộ trong các doanh nghiệp hoặc liên kết với các cơ sở đào tạo ngoài doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc thu hút và sử dụng ĐTNN thời gian qua đã góp phần tích cực hoàn thiện thể kinh tế, môi trường đầu tư kinh doanh theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường, phù hợp với cam kết và thông lệ quốc tế; nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Một số khó khăn đặt ra
Tuy nhiên, bối cảnh thế giới và khu vực đang có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực, nhưng cũng chứa đựng rủi ro, thách thức. Quy mô dòng ĐTNN toàn cầu có xu hướng giảm. Hình thức và phương thức đầu tư phi truyền thống có xu hướng gia tăng. Chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc có khả năng tác động đến điều chỉnh dòng đầu tư của Hoa Kỳ, EU từ Trung Quốc vào các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Với sự tự do lưu chuyển vốn, hàng hóa, dịch vụ, lao động có kỹ năng trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Việt Nam đang phải cạnh tranh thu hút ĐTNN với một số nước, như: Thái Lan, Malaysia và Indonesia ở các ngành công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, trong khi năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam so với các nước này còn khoảng cách khá xa. Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang tạo ra công nghệ mới, tiên tiến, ngành nghề mới, hình thức, phương thức đầu tư kinh doanh mới và mô hình quản trị mới, hiện đại và thông minh hơn.
Với nước ta, mô hình tăng trưởng vẫn còn dựa nhiều vào huy động vốn, lao động, khai thác tài nguyên, nhưng nhiều khi sử dụng chưa thực sự hiệu quả, dẫn đến mất cân đối vĩ mô, suy giảm chất lượng tăng trưởng. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp so với mức thu nhập bình quân của thế giới, trong khi đó Việt Nam là một trong các quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh trên thế giới. Các nhân tố đầu vào sản xuất (đất đai, lao động...) chưa được thị trường hóa và vận hành hiệu quả. Môi trường đầu tư kinh doanh còn thiếu tính minh bạch, tính dự báo trước. Huy động các nguồn tài chính cho phát triển ngày càng khó khăn hơn trong bối cảnh nợ công khá cao, chi phí vay vốn ODA đăng tăng lên. Trong khi đó, năng lực hấp thụ vốn ĐTNN chưa tương xứng với tiềm năng, dù đã được cải thiện. Một số hạn chế, bất cập trong thu hút và sử dụng vốn ĐTNN trong thời gian qua chưa được khắc phục hiệu quả, như: liên kết giữa doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước; thu hút đầu tư từ các TNCs vào các ngành công nghiệp cao, quản trị hiện đại; thu hút vốn ĐTNN trong lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hiệu quả cao, nông nghiệp thông minh; tình trạng chuyển giá, sử dụng lao động phổ thông, đình công không theo trình tự pháp luật quy định.
Ngoài ra, nền kinh tế Việt Nam có độ mở cao nên dễ bị tác động tiêu cực của các biến động địa chính trị, như: chiến tranh thương mại, tranh chấp chủ quyền trên biển Đông, cũng như các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính, suy giảm tăng trưởng toàn cầu.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐTNN
Trong bối cảnh huy động các nguồn vốn từ bên ngoài như vốn ODA đang giảm dần, nguồn vốn đầu tư gián tiếp không ổn định, thì vốn ĐTNN tiếp tục giữ vai trò quan trọng. Để thu hút và sử dụng có chất lượng và hiệu quả vốn ĐTNN, trước hết, phải tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế, cải cách hành chính, tư pháp; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo chuẩn mực thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; đảm bảo vận hành hiệu quả các loại thị trường; thúc đẩy thị trường hóa các nhân tố sản xuất; tập trung khắc phục bất cập về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực; phát triển hệ thống doanh nghiệp trong nước. Theo đó, cần lưu ý những giải pháp sau:
Thứ nhất, về ngành, lĩnh vực
- Ưu tiên thu hút vốn ĐTNN vào các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, tiên tiến, công nghệ thân thiện với môi trường, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; sản xuất thiết bị y tế, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục và đào tạo, du lịch chất lượng cao, dịch vụ tài chính, logistics và các dịch vụ hiện đại khác; sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh; phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là các ngành nghề mới trên nền tảng công nghiệp 4.0.
- Đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng xuất khẩu với đầu tư phát triển sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng và sử dụng nguồn nguyên liệu nội địa, phát triển công nghiệp hỗ trợ, đào tạo nguồn nhân lực trong nước.
- Thu hút nhà ĐTNN, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia liên kết với doanh nghiệp trong nước hình thành và phát triển cụm liên kết ngành theo từng chuỗi giá trị.
- Tiếp tục thu hút vốn ĐTNN vào các ngành, mà Việt Nam vẫn đang có lợi thế như dệt may, da giày..., nhưng ưu tiên tập trung vào các khâu tạo giá trị gia tăng cao, gắn với quy trình sản xuất thông minh, tự động hóa.
Thứ hai, về địa phương, vùng
- Thu hút vốn ĐTNN phù hợp với lợi thế, điều kiện, trình độ phát triển và quy hoạch từng địa phương trong mối liên kết vùng, đảm bảo hiệu quả tổng thể kinh tế - xã hội - môi trường.
- Đối với những địa bàn, khu vực nhạy cảm, liên quan đến quốc phòng, an ninh, khu vực biên giới, vùng biển, hải đảo, vùng đặc quyền kinh tế, việc thu hút thu hút vốn ĐTNN cần được xem xét chặt chẽ, đặt vấn đề bảo đảm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia lên hàng đầu.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo động lực mới cho thu hút vốn ĐTNN vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao; Tận dụng lợi thế của Việt Nam trong thị trường ASEAN và cơ hội, do các hiệp định thương mại tự do (FTA) để thu hút vốn ĐTNN vào nông nghiệp công nghệ cao. Nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách thu hút các nhà đầu tư chiến lược, tập đoàn đa quốc gia (TNCs) đầu tư vào các đơn vị hành chính - kinh tế, đặc biệt được Quốc hội quyết định thành lập khi điều kiện chín muồi.
Thứ ba, về thị trường và đối tác
- Đa phương hóa, đa dạng hóa thu hút vốn ĐTNN từ các thị trường và đối tác tiềm năng. Khai thác có hiệu quả mối quan hệ với các đối tác chiến lược (đối tác toàn diện, đối tác chiến lược toàn diện), chú trọng các nước phát triển hàng đầu thế giới, các TNCs nắm giữ công nghệ nguồn, tiên tiến và trình độ quản trị hiện đại.
- Chủ động, theo dõi, đánh giá xu hướng dịch chuyển dòng vốn ĐTNN và công nghệ lạc hậu, không thân thiện với môi trường vào Việt Nam từ một số nước trong khu vực để lựa chọn thu hút các dự án đầu tư phù hợp với định hướng.
- Thu hút vốn ĐTNN từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, dự án quy mô nhỏ, siêu nhỏ phải đảm bảo điều kiện nâng cấp công nghệ và gia nhập mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển công nghiệp hỗ trợ.
- Tận dụng lợi thế của Việt Nam trong thị trường của ASEAN và cơ hội do các FTA tạo ra để thu hút vốn ĐTNN./.
TS. NGUYỄN THỊ KIM HỒNG
Khoa Lý luận chính trị - Trường Đại học Hàng hải Việt Nam
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo Số 07 - T3/2023)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Báo cáo Hội nghị 30 năm thu hút ĐTNN (FDI), Hà Nội.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016-2022), Báo cáo tình hình thu hút và sử dụng vốn FDI các năm, từ năm 2016 đến năm 2022.
3. Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE) (2022), Báo cáo thường niên về đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam năm 2021, công bố ngày 10/5, Hà Nội.
4. Lê Thị Như Hằng, Nguyễn Đức Dương (2023). Các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình thu hút FDI tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 6, tháng 02/2023.
5. Nguyễn Hồng Thu (2022), Những nhân tố tác động đến đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh mới, truy cập từ https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/825973/nhung-nhan-to-tac-dong-den-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai%C2%A0trong-boi-canh-moi.aspx.
6. Simon J. Evenett and Johannes Fritz (2021), Advancing Sustainable Development With FDI - Why Policy Must Be Reset, The 27th Global Trade Alert Report, Centre for Economic Policy Research (CEPR).
7. Tổng cục Thống kê (2022), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV/2022 và cả năm 2022.
8. UNCTAD (2021), World Investment Report 2021 - Investing in sustainable recovery, United Nations Publications, New York, USA.
Bình luận