Cơ cấu lại không gian kinh tế trong thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng
PGS, TS. Bùi Tất Thắng
Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (*)
VẤN ĐỀ CƠ CẤU LẠI KHÔNG GIAN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG CHỦ TRƯƠNG CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
Chủ trương cơ cấu lại nền kinh tế và vấn đề cơ cấu lại không gian phát triển kinh tế
“Cơ cấu lại nền kinh tế” đã dần mở rộng nội hàm của khái niệm này ra tất cả các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, bao gồm: thể chế kinh tế, các ngành/lĩnh vực, các hình thức sở hữu, các vùng/không gian phát triển kinh tế... |
Cơ cấu lại (tái cơ cấu) nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt từ nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng (2011), qua Đại hội XII (2016) và tiếp tục cho đến Đại hội XIII. Lúc đầu, nội dung của việc cơ cấu lại chỉ tập trung vào 3 lĩnh vực, gồm: (1) Tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; (2) Tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, trọng tâm là các ngân hàng thương mại; và (3) Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Quá trình thực hiện “cơ cấu lại nền kinh tế” đã dần mở rộng nội hàm của khái niệm này ra tất cả các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, bao gồm: thể chế kinh tế, các ngành/lĩnh vực, các hình thức sở hữu, các vùng/không gian phát triển kinh tế...
Đến nay, vấn đề không gian phát triển ngày càng thu hút được sự quan tâm của các cấp quản lý và xã hội, bởi vì:
Thứ nhất, mỗi vùng có các điều kiện đặc thù, phản ánh lợi thế và hạn chế riêng đối với phát triển. Các chính sách phát triển vùng/không gian kinh tế cần huy động được tối đa các nguồn lực, tận dụng tốt nhất các lợi thế vùng trong mỗi giai đoạn cho sự phát triển.
Thứ hai, ngày càng có nhiều vấn đề phát triển kinh tế và tổ chức không gian lãnh thổ vượt ra khỏi phạm vi quản lý hành chính của các chính quyền địa phương các cấp, nên khi giải quyết, đòi hỏi phải có tư duy phát triển quốc gia và vùng. Ví dụ các vấn đề về môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, khai thác và sử dụng nguồn nước, an ninh lương thực quốc gia, an ninh năng lượng quốc gia, kết nối giao thông, xây dựng các công trình hạ tầng lớn, như: sân bay, bến cảng, hồ chứa nước...
Thứ ba, các phương hướng, chính sách phát triển ngành/lĩnh vực (trả lời câu hỏi: phát triển cái gì?) cuối cùng cũng phải định vị rõ được địa bàn, không gian phát triển (trả lời câu hỏi: ở đâu?) với quy mô bao nhiêu là phù hợp, hiệu quả nhất. Sự thiếu kết hợp và không ăn khớp giữa mong muốn phát triển với định vị không gian hợp lý, được luận chứng kỹ lưỡng là một trong những nhân tố khiến cho một số chủ trương đúng, nhưng kết quả thực hiện còn rất hạn chế.
Thứ tư, việc triển khai thực hiện Luật Quy hoạch năm 2017 theo phương pháp tích hợp cho thấy, với cái nhìn tổng thể trên quy mô quốc gia, việc phân bố không gian phát triển cho các lĩnh vực đối với từng vùng, từng địa phương là hết sức cần thiết và là một yêu cầu thực tế rõ ràng. Tiêu chuẩn không gian phát triển ngày càng được các cấp quản lý quan tâm, bởi những sai sót trong phân bố cấu trúc không gian phát triển đối với nhiều lĩnh vực hầu như không có cơ hội sửa chữa hoặc nếu có quyết sửa chữa, thì hết sức tốn kém.
Thứ năm, không có nền kinh tế nào mà tất cả mọi vùng đều phát triển bằng nhau và giống nhau. Nhưng sự hài hòa giữa các vùng trong quá trình phát triển lại vừa là điều kiện, vừa là sự thể hiện của phát triển bền vững. Trên góc nhìn tổng thể, hệ thống và dài hạn, sự hài hòa trong phát triển giữa các vùng là sự phát triển có hiệu suất cao nhất nhờ khai thác tối ưu lợi thế so sánh của mỗi vùng đặt trong tổng thể lợi ích quốc gia. Vì vậy, một mặt, phát triển hài hòa giữa các vùng không có nghĩa là sự phát triển dàn đều, đặc biệt là xét ở góc độ đầu tư phát triển (bởi vì ở những thời điểm nhất định, với những nguồn lực có hạn của xã hội, cần phải có sự tập trung đến những nơi có khả năng mang lại hiệu suất cao nhất). Mặt khác, lại không được bỏ rơi những nơi khó khăn, điều kiện phát triển còn hạn chế. Vì thế, vai trò điều hòa sự phát triển của Nhà nước đối với sự phát triển hài hòa giữa các vùng có ý nghĩa rất quyết định.
Chính vì vậy, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng (2021) đã ghi rõ: “Cơ cấu lại kinh tế vùng, đổi mới thể chế liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng, phát huy vai trò các vùng kinh tế động lực và các đô thị lớn, quan tâm phát triển các vùng còn khó khăn, thu hẹp chênh lệch phát triển giữa các vùng”.
Kết quả của việc cơ cấu lại không gian phát triển kinh tế thời kỳ 2011-2020
Giai đoạn 2011-2020, thực hiện cơ cấu lại không gian phát triển kinh tế đã có bước chuyển biến nhất định. Ảnh: Internet. |
Việc thực hiện cơ cấu lại không gian phát triển kinh tế thời kỳ 2011-2020 có thể nhận xét khái quát chung là đã có bước chuyển biến nhất định. Những nguồn tài nguyên thiên nhiên đặc thù, nổi trội, có ý nghĩa kinh tế của mỗi vùng, mỗi địa phương đều đã được tập trung tổ chức khai thác, điển hình như: năng lượng (thủy điện, điện mặt trời, điện gió); công nghiệp vật liệu xây dựng (khai thác đá, cát, sỏi, sản xuất gạch, ngói, xi măng...); các khu du lịch lớn; các khu đô thị gắn liền với phát triển rất mạnh thị trường bất động sản; hình thành một số vùng thâm canh nông nghiệp (cây lương thực, cây ăn trái, cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy hải sản)... Một số công trình kết cấu hạ tầng lớn có ý nghĩa liên vùng, liên tỉnh được triển khai xây dựng (sân bay, bến cảng, các tuyến đường bộ cao tốc, các cây cầu lớn, hạ tầng công nghệ thông tin, hồ đập thủy lợi...). Trong số này, lĩnh vực có nhiều dấu ấn tăng trưởng nhất là hệ thống đô thị và xây dựng nông thôn mới. Mạng lưới đô thị tăng nhanh về số lượng, mở rộng về quy mô, góp phần tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Đến nay, cả nước có 830 đô thị, bao gồm: 2 đô thị loại đặc biệt; 19 đô thị loại I; 29 đô thị loại II; 45 đô thị loại III; 80 đô thị loại IV; 655 đô thị loại V. Tỷ lệ đô thị hoá tăng từ 30,5% năm 2010 lên 39,3% năm 2020. Các đô thị lớn, nhất là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh vẫn đóng vai trò là các cực tăng trưởng chủ đạo, lan tỏa tri thức, đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế, đa dạng hóa các hoạt động kinh tế. Một số khu vực có tốc độ đô thị hóa cao, đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế, như: Hải Phòng, Quảng Ninh; Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi; Khánh Hòa, Ninh Thuận; An Giang, Kiên Giang... Chương trình xây dựng nông thôn mới đã hoàn thành trước thời hạn so với mục tiêu đề ra. Đã có 54% số xã và 111 huyện đạt chuẩn nông thôn mới, làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội và đời sống của cư dân ở nhiều vùng nông thôn.
Tuy vậy, sự thay đổi của bộ mặt kinh tế vùng nêu trên khó có thể phân định được do chính sách cơ cấu lại không gian phát triển tác động đến đâu hay tự bản thân mỗi vùng cứ tự phát triển như vậy, chủ yếu dựa trên thế mạnh của bản thân mình cùng với sự đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Sự thật thì trong chính sách cơ cấu lại nền kinh tế, tư duy cơ cấu lại các ngành/lĩnh vực phát triển vẫn chưa đi liền và có sự lồng ghép chặt chẽ với tư duy cơ cấu lại không gian phát triển. Các chính sách ưu tiên cụ thể cho các ngành/lĩnh vực ít được định vị cho các vùng, địa phương nhất định, ngoại trừ các quy định cho các khu công nghiệp, khu kinh tế và một số địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Những chính sách đặc thù cho phát triển một số thành phố, như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, một số tỉnh, như: Thanh Hóa, Thừa Thiên - Huế..., thì về cơ bản cũng mới (hoặc đang chuẩn bị) ban hành, chưa có thời gian tác động nhiều đến chính sách cơ cấu lại không gian phát triển. Tiến độ triển khai công tác xây dựng quy hoạch phát triển quốc gia, các vùng và các địa phương theo tinh thần Luật Quy hoạch 2017 còn chậm. Đó cũng là một trong những lý do khiến từ Đại hội XII (2016) đến Đại hội XIII (2021) đều nhận định: Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Những mặt hạn chế, yếu kém về cơ cấu lại không gian phát triển (cả trên đất liền lẫn trên biển) được Đại hội XIII chỉ ra là: “Tác động lan tỏa và liên kết của các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác chưa rõ nét. Thiếu cơ chế, chính sách phù hợp để phát triển kinh tế vùng và điều phối liên kết vùng hiệu quả; không gian phát triển bị chia cắt, đầu tư còn chồng chéo, trùng lặp; chưa khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của từng vùng, địa phương. Việc giải quyết những vấn đề có tính liên vùng như ô nhiễm môi trường, kết cấu hạ tầng… còn khó khăn, vướng mắc”. Với không gian kinh tế biển, thì “Chưa xây dựng được thương cảng quốc tế và tập đoàn kinh tế mạnh tầm cỡ khu vực. Kết nối phát triển kinh tế biển với vùng ven biển và nội địa còn thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả”. “Chất lượng phát triển đô thị chưa cao; hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, nhất là giao thông, thoát nước, xử lý nước thải, rác thải, hạ tầng xã hội; năng lực, trình độ quản lý thấp, chậm đổi mới; còn tình trạng ùn tắc giao thông, úng ngập, ô nhiễm môi trường, nhiều nơi thiếu, quá tải dịch vụ xã hội...”. “Đô thị hóa đất đai nhanh hơn đô thị hóa dân số; sử dụng đất đô thị chưa hiệu quả. Mật độ đô thị thấp, manh mún, đặc biệt là vùng ven Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Thiếu kết cấu hạ tầng giao thông kết nối đô thị và nông thôn, giữa trung tâm và các khu vực mở rộng ven đô. Kết nối giữa các đô thị với chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ, logistics còn yếu; người nhập cư khó tiếp cận các dịch vụ cơ bản và các cơ hội việc làm ở đô thị... làm giảm hiệu quả kinh tế của đô thị, sức cạnh tranh khu vực và quốc tế của các đô thị lớn chưa cao”. “Kết quả xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương chưa thực sự bền vững, nhất là về sinh kế và nâng cao thu nhập người dân; nhiều nơi mới chú trọng đến hạ tầng, ít quan tâm đến sản xuất, kinh doanh. Sự gắn kết giữa xây dựng nông thôn mới và cơ cấu lại nông nghiệp chưa chặt chẽ...”.
ĐỊNH HƯỚNG CƠ CẤU LẠI KHÔNG GIAN KINH TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI
Quan điểm
Trong Tờ trình về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 (Tờ trình số 5493/TTr-BKHĐT, ngày 19/8/2021) của Bộ Kế hoạch và Đầu tư có nêu 6 quan điểm, trong đó có 2 quan điểm trực tiếp đề cập đến vấn đề cơ cấu lại không gian kinh tế. Cụ thể là:
“(iii) Cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 lấy hoàn thiện thể chế, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo làm đột phá, lấy cơ cấu lại không gian kinh tế, thúc đẩy liên kết vùng và vai trò dẫn dắt đổi mới mô hình tăng trưởng của các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn làm nhiệm vụ trọng tâm...
(vi) Căn cứ vào điều kiện cụ thể tại các ngành, vùng, địa phương để xác định trọng tâm cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 của ngành, vùng, địa phương cho phù hợp nhằm khai thác lợi thế so sánh và tập trung nguồn lực nâng cao năng suất và hiệu quả, đảm bảo cho nhiều người dân được hưởng lợi từ quá trình tăng trưởng”.
Đây là lần đầu tiên trong quan điểm về cơ cấu lại nền kinh tế trình bày một cách rất rõ ràng về nội dung cơ cấu lại không gian kinh tế. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với cách tiếp cận về cơ cấu lại không gian kinh tế nêu trên. Vì điều này đã thể hiện được đúng tinh thần Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng các quy hoạch phát triển theo tinh thần Luật Quy hoạch năm 2017. Định hướng phát triển các ngành/lĩnh vực mà thiếu đi yếu tố định vị không gian phát triển và tầm nhìn chung từ nhãn quan lợi ích tổng thể quốc gia, để bố trí sự phát triển các ngành/lĩnh vực trên các địa bàn nhất định, sẽ dễ dẫn đến kiểu định hướng chung chung, mang nặng tính khẩu hiệu. Ngay cả các doanh nghiệp, các nhà đầu tư cũng không định hướng được các địa bàn cụ thể khi tìm kiếm cơ hội đầu tư. Hơn nữa, cách đặt vấn đề này còn mở ra một chiều hướng hoạch định chính sách cụ thể hơn cho việc hướng dẫn đầu tư vào mỗi lĩnh vực trên mỗi một địa bàn nhất định.
Nhiệm vụ, giải pháp
Dự thảo Báo cáo Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 nêu 5 nhóm giải pháp toàn diện các lĩnh vực, trong đó có phân tích về giải pháp cơ cấu lại không gian kinh tế, tăng cường liên kết vùng và phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn; phát triển kinh tế đô thị trong thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng, với 4 mục tiêu cụ thể là:
(i) Tốc độ tăng năng năng suất lao động của các vùng kinh tế trọng điểm và 5 thành phố trực thuộc Trung ương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động trung bình cả nước.
(ii) Đến năm 2022, hoàn thành phê duyệt các quy hoạch trong hệ thống quy hoạch quốc gia, hình thành cơ cấu lại không gian kinh tế hợp lý, mở rộng không gian phát triển.
(iii) Thúc đẩy hợp tác, liên kết vùng nhằm tận dụng lợi thế theo quy mô, khai thác thế mạnh của các vùng, hình thành liên kết và nâng cấp chuỗi giá trị, giải quyết các vấn đề chung của vùng.
(iv) Nâng cao vai trò đổi mới sáng tạo của các trung tâm, đô thị lớn; phát huy vai trò dẫn dắt đổi mới mô hình tăng trưởng và tính lan tỏa của các vùng kinh tế trọng điểm.
Trên cơ sở những nhiệm vụ này, báo cáo Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 đề xuất 8 nhiệm vụ, giải pháp, gồm:
(1) Sớm ban hành và thực hiện nghiêm quy hoạch quốc gia, các quy hoạch vùng, quy hoạch các địa phương, trong đó cần thể hiện rõ: nội dung cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh; định hướng khai thác hiệu quả hợp tác, liên kết vùng, gia tăng lợi ích lan tỏa trong nâng cao năng suất, nâng cấp chuỗi giá trị của các ngành có thế mạnh của vùng, đồng thời thích ứng với biến đổi khí hậu đối với các ngành dễ bị tổn thương, thúc đẩy cơ cấu lại không gian kinh tế một cách hiệu quả, bền vững.
(2) Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết vùng thực chất, hiệu quả.
(3) Sửa đổi các nội dung liên quan trong Luật Ngân sách nhà nước, Luật Tổ chức chính quyền địa phương theo hướng tạo cơ chế thuận lợi và khuyến khích phối hợp nguồn lực giữa các địa phương nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển chung của vùng.
(4) Kiện toàn bộ máy tổ chức điều phối vùng và tăng cường cơ chế liên kết vùng.
(5) Triển khai kế hoạch đầu tư công trung hạn theo hướng tập trung vốn cả trung ương và địa phương, phối hợp vốn đầu tư trung ương – địa phương, giữa các địa phương có liên quan để đầu tư các công trình hạ tầng giao thông kết nối vùng, kết nối giữa các tỉnh, thành phố trong vùng, kết nối các khu công nghiệp với cảng biển quốc gia; nâng cao năng lực và khả năng kết nối toàn vùng.
(6) Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát huy vai trò dẫn dắt đổi mới mô hình tăng trưởng của 4 vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn.
(7) Rà soát, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về kinh tế - xã hội, tài nguyên và môi trường của các vùng, bảo đảm thống nhất dữ liệu của vùng với hệ thống dữ liệu quốc gia, làm cơ sở lập, theo dõi, đánh giá triển khai quy hoạch vùng, hợp tác, liên kết vùng.
(8) Hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách về quy hoạch và phát triển đô thị gắn với các mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia vào đầu tư, phát triển đô thị và cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị.
Chúng tôi cho rằng, về nguyên tắc, các nhiệm vụ giải pháp nêu trên không có điểm nào sai. Song có 2 điều băn khoăn là:
(i) Nội dung các mục tiêu giải pháp này có nhiều điểm còn chung chung, giống nhiều nội dung ghi trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng và với số lượng các mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp cho toàn bộ Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế (61 mục tiêu, 135 nhiệm vụ, giải pháp) khá giống với những nhiệm vụ, giải pháp nêu trong các Nghị quyết số 01 và 02 hàng năm của Chính phủ, vậy có gì mang tính đặc trưng của các mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp của kế hoạch “cơ cấu lại nền kinh tế” hay không?
(ii) Vì có một số nội dung còn chung chung nên công tác giám sát việc thực hiện của Quốc hội cũng không dễ. Hơn nữa, việc thực hiện khá nhiều nội dung trong nhiệm vụ, giải pháp này lại là quá trình tiếp tục làm đề án, chính sách; trong khi thực tế đang đòi hỏi phải có ngay các biện pháp tháo gỡ cấp bách, đặc biệt là nhìn từ nhu cầu phục hồi kinh tế dưới tác động của đại dịch Covid-19 hiện nay.
Trong phạm vi của nội dung cơ cấu lại không gian phát triển, có lẽ hạn chế ở đây là chưa làm rõ được nội dung của một khái niệm chủ chốt: “tính hợp lý” của việc cơ cấu lại không gian kinh tế. Phần đánh giá tình hình cũng chưa phân tích rõ tính chưa hợp lý của phân bố không gian kinh tế hiện hành. Đây là vấn đề rất khó về mặt khoa học, đặc biệt là nhìn từ góc độ phát triển bền vững. Vì vậy, trong khi chờ đợi những nghiên cứu sâu hơn về các tiêu chí cụ thể để đánh giá “tính hợp lý” của việc cơ cấu lại không gian kinh tế, Kế hoạch nên tập trung vào một số nhiệm vụ cụ thể như sau:
Một là, giám sát thật nghiêm việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về các chính sách đặc thù đã ban hành đối với TP. Hồ Chí Minh (Nghị quyết số 54/2017/QH14, ngày 24/11/2017); TP Hà Nội (Nghị quyết số 115/2020/QH14, ngày 19/6/2020) và TP. Đà Nẵng (Nghị quyết số 119/2020/QH14, ngày 19/6/2020), nếu cần thiết (do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 làm bộc lộ ra những vấn đề mới) chỉnh sửa, bổ sung, thì cấp thiết chỉnh sửa, bổ sung. Đồng thời, tiếp tục cứu xét, ban hành tiếp chính sách đặc thù, vượt trội đối với một số đô thị lớn khác để các đô thị, các vùng kinh tế trọng điểm thực sự đóng vai trò đầu tàu tăng trưởng và thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng.
Hai là, đối với một số đô thị đã xác định rõ chức năng nhiệm vụ, cần có ngay chính sách ưu đãi theo hướng ưu tiên cao độ cho những dự án đầu tư cho lĩnh vực phát triển trọng tâm của chính đô thị đó.
Ví dụ 1: Mới đây, tại Quyết định số 1538/QĐ-TTg, ngày 16/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Nhiệm vụ quy hoạch chung TP. Thủ Đức thuộc TP. Hồ Chí Minh đến năm 2040 xác định Thủ Đức hướng đến mục tiêu trở thành “trung tâm kinh tế tri thức, khoa học - công nghệ, tài chính quan trọng của TP. Hồ Chí Minh và quốc gia”, thì các chính sách đi kèm cần thiết là những chính sách ưu tiên phát triển nhanh trong một thời gian nhất định cho 3 lĩnh vực: (i) Kinh tế tri thức; (ii) Khoa học - công nghệ; (iii) Tài chính phải được ban bố rõ ràng, kịp thời.
Ví dụ 2: Cảng quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng) và Cảng quốc tế Thị Vải - Cái Mép (Bà Rịa – Vũng Tàu) là những cảng lớn nhất nước, có ý nghĩa quyết định đối với kinh tế hàng hải của Việt Nam cũng như quyết định đối với với phát triển logistics, giảm giá thành vận tải, phục vụ phát triển hai hệ thống khu công nghiệp tập trung ở hai đầu đất nước (toàn bộ miền Bắc và miền Đông Nam Bộ). Vì vậy, để cấu trúc lại không gian phát triển, những chính sách ưu tiên phục vụ phát triển logistics ở thành phố cảng Hải Phòng và thành phố cảng Bà Rịa – Vũng Tàu cũng phải được ban bố rõ ràng, kịp thời. Nhiệm vụ trọng tâm của 5 năm trước mắt có thể là tập trung xây dựng tuyến đường sắt (vận chuyển container) nối từ các cảng này vào các tỉnh/thành phố, khu công nghiệp phía trong nội địa.
Ba là, đại dịch Covid-19 đã và đang cho thấy những điểm hạn chế về mặt bố trí không gian lãnh thổ, trong đó có vấn đề tương quan giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với đô thị hóa, vốn đã được đề cập từ lâu, nhưng đến nay, vẫn chưa khắc phục được. Biểu hiện cụ thể của hạn chế này là một lực lượng đông đảo lao động nhập cư từ các tỉnh vào các thành phố lớn và các khu công nghiệp (hàng chục vạn người), kéo theo là gia đình của họ (hàng triệu người), đang gặp nhiều khó khăn và bị xáo trộn lớn. Hiện nay, một số doanh nghiệp, công ty muốn khôi phục lại sản xuất cũng không dễ khi chiêu mộ, sắp xếp lại lực lượng lao động của mình. Vì vậy, Chương trình phục hồi kinh tế trong cơn đại dịch cần có những giải pháp được tiếp cận cụ thể từ góc độ không gian phát triển thiết thực hơn./.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2021). Tờ trình số 5493/TTr-BKHĐT, ngày 19/8/2021 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025
2. Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật
(*) Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 31 năm 2021
Bình luận