CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH KẾT QUẢ THỰC THI CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI

Mục tiêu của chính sách thu hút FDI là tạo lập khung khổ pháp luật, hệ thống các quy định, công cụ và biện pháp, mà Nhà nước áp dụng nhằm thu hút, điều chỉnh hoạt động thu hút và sử dụng FDI hiệu quả nhất, nhằm thực hiện những mục tiêu chung hoặc mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của một quốc gia, địa phương. Đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi để kích thích dòng vốn FDI đầu tư vào trong nước, định hướng các hình thức đầu tư, hướng các dòng vốn FDI vào các lĩnh vực, ngành, vùng và sản phẩm… theo mục tiêu định trước của nước, của địa phương tiếp nhận đầu tư. Các mục tiêu cụ thể phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia, địa phương, đối với Việt Nam hiện nay, đó là: huy động vốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, chuyển giao công nghệ, giải quyết việc làm, tăng cường xuất khẩu, nâng cao trình độ cho người lao động… Mục tiêu của chính sách thu hút FDI không cố định theo thời gian, cũng không giống nhau giữa các quốc gia, các địa phương. Tùy thuộc vào trình độ, mục tiêu phát triển, các quốc gia, các địa phương có thể thay đổi, điều chỉnh mục tiêu và nội dung của chính sách thu hút FDI theo thời gian nhằm khai thác tối đa dòng vốn này để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Hoàn thiện chính sách, giải pháp thu hút FDI thế hệ mới trên địa bàn Thủ đô Hà Nội
Năm 2018 và năm 2019, Hà Nội đứng đầu cả nước về thu hút FDI

Các chỉ tiêu đánh giá kết quả thu hút FDI bao gồm: (1) Quy mô và tốc độ tăng vốn đầu tư của khu vực FDI: phản ánh quy mô gia tăng vốn đầu tư FDI của năm trước so với năm sau hay trong một giai đoạn nào đó. Gia tăng vốn đầu tư FDI là điều kiện hết sức quan trọng đối với tăng trưởng của nền kinh tế bởi các DN đầu tư FDI có trình độ công nghệ, quản lý tiên tiến, cũng như phát huy được thị trường rộng lớn ở các công ty mẹ ở nước ngoài; (2) Cơ cấu FDI theo quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư; (3) Cơ cấu FDI theo vùng, khu vực lãnh thổ nhận đầu tư; (4) Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư.

Chỉ tiêu đánh giá đóng góp của FDI vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương bao gồm: (i) Tác động của khu vực FDI đến thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đóng góp của khu vực FDI vào tăng trưởng kinh tế; (ii) Tác động của các khu vực FDI đến thực hiện mục tiêu lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác, thúc đẩy đầu tư tư nhân trong nước; (iii) Tác động của khu vực FDI đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô; (iv) Tác động của khu vực FDI tới tăng nguồn thu ngân sách nhà nước của địa phương; (v) Tác động của khu vực FDI đến việc thực hiện mục tiêu tạo việc làm.

KẾT QUẢ THỰC THI CHÍNH SÁCH THU HÚT VỐN FDI CỦA HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2009-2019

Để đánh giá kết quả thực thi chính sách thu hút FDI của TP. Hà Nội giai đoạn 2009-2019, tác giả tổng hợp và phân tích số liệu của Niên giám Thống kê TP. Hà Nội, cũng như báo cáo Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hà Nội về tình hình thu hút FDI các năm, từ năm 2009 đến năm 2019. Kết quả như sau:

Kết quả thu hút FDI

Thứ nhất, quy mô đầu tư của khu vực FDI. Năm 2018 và năm 2019, Hà Nội đứng đầu cả nước về thu hút FDI, lần lượt đạt 7.501 triệu USD và 8.464 triệu USD - cao nhất sau hơn 30 năm đổi mới, hội nhập. Năm 2020, TP. Hà Nội đã thu hút 1.907 triệu USD, trong đó có 662 triệu USD của 464 dự án cấp phép mới và 1.245 triệu USD của 132 dự án bổ sung vốn đầu tư; Nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua phần vốn đạt 1.280 triệu USD. Trong đó, phải kể đến một loạt dự án lớn đã được cấp phép trong những tháng đầu năm 2020 như: Dự án Nidec Chaun Choung Việt Nam (Nhật Bản) 174,5 triệu USD; Hanoi Lotte World Aquarium (Hàn Quốc) 47 triệu USD; Công trình văn phòng 29 Liễu Giai (Twin Peaks) tăng vốn 246 triệu USD... [1].

Thứ hai, cơ cấu FDI theo quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư. Tính đến cuối năm 2019, có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào TP. Hà Nội, trong đó có 20 quốc gia là đối tác chính. Nhật Bản hiện là quốc gia dẫn đầu về vốn đầu tư đăng ký với 959 dự án và vốn đầu tư gần 10,2 tỷ USD, chiếm 28,3% tổng vốn đăng ký; đứng thứ 2 là Singapore (6,0 tỷ USD, chiếm 16,7% tổng vốn đăng ký); thứ 3 là Hàn Quốc (5,48 tỷ USD, chiếm 15,2% tổng vốn đăng ký). Các nhà đầu tư đến từ các nước phát triển có nền khoa học, công nghệ cao còn rất khiêm tốn, như: Hoa Kỳ (293 triệu USD, chiếm 1,1% tổng vốn đăng ký); Pháp (247 triệu USD, chiếm tỷ 0,9% tổng vốn đăng ký); Anh (419 triệu USD, chiếm 1,5% vốn đăng ký) [4].

Thứ ba, cơ cấu FDI theo vùng, khu vực lãnh thổ nhận đầu tư. Số dự án và số vốn FDI của Hà Nội chủ yếu tập trung trong vùng đô thị lõi ở trung tâm, vùng 5 đô thị vệ tinh. Dòng vốn FDI tập trung nhiều vào khu vực nội thành, ít hấp dẫn ở khu vực ngoại thành. Khu vực các huyện ngoại thành có quỹ đất rộng, nhiều tiềm năng đầu tư lại chưa được khuyến khích phát triển nhiều. Khu vực các huyện ngoại thành (bao gồm 17 huyện) chỉ chiếm 9,4%.

Thứ tư, cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư. Các hình thức đầu tư vào Hà Nội giai đoạn 2009-2019 chủ yếu và chiếm hơn 78% tỷ lệ là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài với 1.271 dự án, trong khi đó doanh nghiệp liên doanh chỉ có 304 dự án, chiếm 18,5%, còn các hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hay hợp đồng BOT, BTO, BT chỉ 1% ~2%. Điều này sẽ gây khó khăn cho Thành phố trong việc mong muốn học hỏi kinh nghiệm, trình độ quản lý và chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển hơn.

Thứ tư, cơ cấu FDI theo ngành kinh tế. Hiện nay, vốn FDI của Hà Nội chủ yếu tập trung cho công nghiệp, chế biến, chế tạo, xây dựng, kinh doanh bất động sản, dịch vụ. Lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Giai đoạn 2010-2019, những dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tới 58,22% tổng số dự án, 62,14% về tổng vốn đăng ký. Đối với lĩnh vực dịch vụ có 1.332 dự án, chiếm 41,12% tổng số dự án và 37,57% về tổng vốn đăng ký đầu tư. Trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tính chung giai đoạn 2010 - 2019, toàn Thành phố chỉ thu hút được 21 dự án, chiếm 0,65% [4].

Đánh giá đóng góp của vốn FDI vào phát triển kinh tế - xã hội TP. Hà Nội giai đoạn 2009-2019

Một là, khu vực FDI đóng góp vào quy mô của nền kinh tế Thành phố. Khu vực FDI đã bổ sung thêm nguồn vốn không nhỏ để Thủ đô đầu tư phát triển. Theo tính toán của nhóm tác giả dựa trên số liệu Niên giám Thống kê TP. Hà Nội, trong giai đoạn 2009-2019, khu vực FDI của Hà Nội đóng góp: 10,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; 10,62% tổng thu ngân sách nhà nước; 15,9% GRDP; 20,0% tổng kim ngạch nhập khẩu; 46,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; 43,3% sản lượng công nghiệp toàn Thành phố.

Khu vực FDI đã đóng góp không nhỏ vào những thành tựu của TP. Hà Nội, về: tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, tăng trưởng đầu tư của khu vực tư nhân, tăng năng suất lao động và giải quyết việc làm. Tuy nhiên, mức đóng góp của khu vực DFI vào GRDP Hà Nội chưa thực sự lớn. Tính toán của nhóm tác giả cho thấy, giai đoạn 2009-2019, khu vực FDI đóng góp 15,9% GRDP của Thành phố, mức đóng góp này còn thấp so với mức trung bình của cả nước (khoảng 26%-28%).

Hai là, khu vực FDI tác động lan tỏa đến thành phần kinh tế khác, góp phần thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân trong nước. Giai đoạn 2009-2019, khu vực FDI của Hà Nội đã tạo ra sức ép cạnh tranh lớn cho các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố, buộc họ phải đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm hàng hóa đủ tiêu chuẩn tham gia vào chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa toàn cầu. Tuy vậy, với việc có tới 95% doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ lao động thấp, năng lực công nghệ yếu kém, thiếu sự liên kết của doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước… đang là một rào cản lớn, khiến tác động lan tỏa mang tính thúc đẩy của khu vực FDI tới các thành phần kinh tế khác của Thành phố chưa như kỳ vọng.

Ba là, khu vực FDI góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô theo hướng dịch vụ và công nghiệp chất lượng cao. Cơ cấu vốn đầu tư theo ngành, theo lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo của Thành phố trong giai đoạn 2009-2019 đạt tỷ lệ khá cao (28,8%). Đặc biệt, chất lượng dòng vốn FDI được cải thiện. Trong giai đoạn 2016-2019, Hà Nội đã tiếp nhận nhiều dự án đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên khuyến khích, như: sản xuất chế biến chế tạo, công nghệ cao, nghiệp vụ chuyên môn khoa học và công nghệ, thông tin và truyền thông…

Bốn là, khu vực FDI đóng góp vào tạo việc làm mới của Thành phố. Trong giai đoạn 2009-2019, khu vực FDI tạo việc làm khoảng 10,6% (295 ngàn người) lao động làm việc trong các khu vực kinh tế của Hà Nội.

Mặc dù có tạo ra nhiều việc làm hơn cho Hà Nội, song thực tế cho thấy, phần lớn doanh nghiệp FDI sử dụng lao động rẻ, gia công lắp ráp và tạo giá trị gia tăng thấp, nên chưa mang lại nhiều giá trị gia tăng cho Thành phố.

Đặc biệt, khu vực FDI chưa thể hiện khả năng tạo ra sự tăng trưởng việc làm trong dài hạn. Nguyên nhân một phần là do Hà Nội đang thiếu nhân lực quản lý trình độ cao, doanh nhân giỏi, lao động nghề trong khu vực mũi nhọn. Tỷ lệ lao động qua đào tạo hiện còn thấp, tỷ lệ doanh nhân, lao động trong lĩnh vực công nghệ cao cũng còn thấp. Vì thế, khi tập trung thu hút các dự án FDI vào các lĩnh vực công nghệ cao (điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin, cơ khí chính xác...), với nhu cầu về lao động kỹ thuật là rất lớn, thì lao động của Hà Nội chưa đáp ứng được yêu cầu.

HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH, GIẢI PHÁP THU HÚT FDI THẾ HỆ MỚI TRÊN ĐỊA BÀN THỦ ĐÔ

Hà Nội cần bổ sung, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất của các ngành các lĩnh vực để làm căn cứ quy hoạch thu hút dự án đầu tư FDI theo ngành, lĩnh vực, đối tác nhằm khắc phục tồn tại cấp đất dự án FDI chạy theo nhà đầu tư.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, giai đoạn 2009-2019, với nhiều chính sách thu hút FDI khá hiệu quả, khu vực kinh tế FDI đã có bước phát triển quan trọng, đóng góp lớn vào sự phát triển chung của Thủ đô. Tuy vậy, thực tế cho thấy, việc thực thi chính sách thu hút FDI của Hà Nội trong những năm qua cũng gặp nhiều hạn chế, bất cập, phát sinh nhiều vấn đề mới cần tiếp tục nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện. Vì thế, việc thu hút FDI dù có xu hướng tăng trong cả giai đoạn, nhưng chưa ổn định; hiệu quả đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng của Thủ đô.

Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp và khó dự báo, kinh tế và thương mại toàn cầu suy giảm, kinh tế Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng chịu tác động nghiêm trọng từ đại dịch Covid-19, nhóm tác giả đề xuất một số khuyến nghị về chính sách, giải pháp thu hút FDI, nhất là nguồn vốn FDI thế hệ mới trên địa bàn Thủ đô như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế, chính sách đồng bộ, nhất quán, tạo hành lang pháp lý cho việc thu hút, quản lý FDI, đổi mới chiến lược thu hút FDI từ thế hệ cũ sang thế hệ mới, phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế -xã hội của Thủ đô và vùng Thủ đô. Đổi mới quan điểm chiến lược và định hướng thu hút FDI thế hệ mới của Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn năm 2045. Chiến lược thu hút và sử dụng FDI thế hệ mới của Hà Nội là nhằm khắc phục được các hạn chế của chiến lược FDI thế hệ cũ, tranh thủ được các cơ hội từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và 16 FTA thế hệ mới để thúc đẩy nhanh đổi mới mô hình tăng trưởng của Thủ đô, phát triển bền vững, theo hướng các ngành công nghệ cao và nền kinh tế tri thức, đưa Thành phố thật sự trở thành một đầu tàu kinh tế lớn nhất của cả nước, thành trung tâm khoa học, công nghệ cao số 1 của cả nước và có thương hiệu mạnh trong cộng đồng kinh tế ASEAN trong tương lai.

Chuyển đổi chiến lược thu hút các dự án FDI từ chiều rộng sang chiều sâu, từ không kiểm soát cơ cấu sang chiến lược kiểm soát chặt chẽ phân bổ cơ cấu dự án và vốn đầu tư hợp lý. Thực hiện chiến lược thu hút dựa vào phát huy lợi thế cạnh tranh của Hà Nội và bảo vệ doanh nghiệp trong nước: Chiến lược thu hút FDI thế hệ mới của Hà Nội cần quán triệt quan điểm: Hà Nội chỉ nên thu hút các dự án FDI thuộc các ngành/lĩnh vực phát huy được vai trò, vị trí, những lợi thế so sánh của Hà Nội và những ngành/lĩnh vực mà các doanh nghiệp trong nước không làm được; Kiên quyết không thu hút các dự án FDI mà Hà Nội không có lợi thế cạnh tranh và các dự án doanh nghiệp trong nước có thể làm được.

Thứ hai, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất của các ngành các lĩnh vực để làm căn cứ quy hoạch thu hút dự án đầu tư FDI theo ngành, lĩnh vực, đối tác phù hợp với lợi thế của từng vùng, từng ngành phù hợp với tái cấu trúc nền kinh tế theo mô hình tăng trưởng mới. Cụ thể, Hà Nội cần bổ sung, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất của các ngành các lĩnh vực để làm căn cứ quy hoạch thu hút dự án đầu tư FDI theo ngành, lĩnh vực, đối tác nhằm khắc phục tồn tại cấp đất dự án FDI chạy theo nhà đầu tư, tỷ lệ các dự án đầu tư ngoài các khu công nghệ cao, khu công nghiệp và 5 đô thị vệ tinh thấp.

Thứ ba, đổi mới chính sách thu hút các dự án đầu tư. Ban hành chính sách và danh mục về các dự án ưu tiên thu hút cho các địa bàn, lĩnh vực, sản phẩm, chọn lọc các dự án sử dụng công nghệ cao. Năm loại dự án đầu tư được ưu đãi khuyến khích thu hút FDI vào Hà Nội là:

(1) Dự án đáp ứng được các mục tiêu về: hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường, công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, liên kết với doanh nghiệp trong nước và liên kết vùng Thủ đô cao.

(2) Dự án đầu tư vào vùng 5 đô thị vệ tinh và vùng nông nghiệp, nông thôn.

(3) Dự án đầu tư vào các ngành tiết kiệm năng lượng, đất đai, sản xuất sạch, đầu tư vào các thiết bị và công nghệ xử lý môi trường.

(4) Dự án các ngành/lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao, công nghệ sinh học trong y học và chế biến nông nghiệp; công nghệ dược phẩm; nông nghiệp sạch công nghệ cao; hạ tầng giao thông.

(5) Dự án tạo ra động lực phát triển mới, lan tỏa rộng và đa dạng hoá thị trường và đối tác chiến lược để phân tán rủi ro.

Thứ tư, xây dựng hệ thống các tiêu chí tính điểm ưu tiên để lượng hoá các chính sách ưu đãi vượt trội theo mức độ hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường. Đưa vào hệ thống chấm điểm ưu tiên ngoài các tiêu chí hiện hành (về ngành, lĩnh vực; địa bàn và quy mô vốn, lao động) cần bổ sung thêm các tiêu chí về: mức độ liên kết với doanh nghiệp trong nước; mức độ chuyển giao công nghệ, đóng góp vào ngân sách nhà nước; mức độ giá trị gia tăng, mức độ sử dụng tiêu hao tài nguyên; mức độ lan toả công nghệ tăng năng suất lao động xã hội. Các chỉ tiêu ưu tiên và mức độ tính điểm ưu tiên căn cứ vào 5 định hướng chính sách ưu tiên để ưu đãi khuyến khích thu hút và sử dụng vốn FDI của Hà Nội.

Hà Nội cần triển khai xây dựng hệ thống tính điểm ưu tiên cho các dự án đầu tư FDI, theo nguyên tắc cho điểm tất cả các loại ưu tiên theo mức độ đạt được cao hay thấp, từ đó xếp loại chung về ưu tiên theo kết quả tổng số điểm đạt được, khắc phục tình trạng cào bằng trong ưu đãi.

Thứ năm, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ đặc thù cho nhà đầu tư để cạnh tranh với các nước trong khu vực. Ban hành chính sách hỗ trợ giảm chi phí các yếu tố đầu vào trên một đồng vốn đầu tư tương đương với suất đầu tư tại các nước trong khu vực ASEAN để cạnh tranh các dự án động lực. Các cơ quan chức năng tính toán đề xuất tất cả các mức hỗ trợ, ưu đãi về giải phóng mặt bằng, miễn giảm giá thuê đất, thuế xuất - nhập khẩu… bảo đảm nguyên tắc: chi phí các yếu tố đầu vào bình quân trên một đồng vốn đầu tư cho dự án công nghệ cao (cần thu hút) tương đương với suất đầu tư ở các nước dẫn đầu trong khu vực ASEAN, như: Singapore, Thái Lan và Malaysia. Ban hành chính sách hỗ trợ về đào tạo; thu hút các chuyên gia, các nhà khoa học, các tài năng… để cung cấp đầy đủ lao động chất lượng cao cho các doanh nghiệp FDI công nghệ cao chủ lực.

Thứ sáu, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các dự án FDI nhằm đạt được mục tiêu chính sách. Theo đó, cần ban hành hệ thống tiêu chí và hàng rào kỹ thuật theo chiến lược và định hướng thu hút FDI thế hệ mới và mục tiêu quản lý nhà nước về hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường làm căn cứ xúc tiến đầu tư, cấp ưu đãi đầu tư, hậu kiểm và đánh giá hiệu quả thu hút và sử dụng vốn FDI. Hoàn thiện quy trình, nội dung thẩm tra, thẩm định cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư. Kiện toàn tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư theo mô hình đặc thù của Thủ đô theo hướng tập trung tinh gọn đầu mối, chuyên nghiệp hóa, tính phối hợp cao, nâng cao chất lượng cán bộ, quy định trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng của từng chức danh cán bộ để làm căn cứ đánh mức độ hoàn thành nhiệm vụ, khen thưởng kỷ luật. Kiện toàn bộ máy và hoàn thiện cơ chế hậu kiểm, tập trung vào 3 vấn đề: môi trường, trốn thuế, chuyển giá./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hà Nội (2020). Báo cáo thu hút đầu tư nước ngoài trên địa bàn TP. Hà Nội năm 2020

2. Tổng cục Thống kê (2001-2020). Cơ sở dữ liệu điều tra doanh nghiệp hàng năm, từ năm 2000 đến 2019

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư và IFC (2018). Chiến lược và định hướng thu hút FDI thế hệ mới 2020- 2030, công bố tháng 6/2018

4. Cục Thống kê TP. Hà Nội (2010-2020). Niên giám Thống kê TP. Hà Nội các năm, từ năm 2009 đến 2019, Nxb Thống kê

5. Lê Như Thanh (2016). Hoạch định và thực thi chính sách công, Nxb Chính trị quốc gia

6. Nguyễn Tuệ Anh (2014). Nghiên cứu điều chỉnh chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đến năm 2020, Báo cáo đề tài khoa học cấp nhà nước

7. Nguyễn Thạc Hoát (2019). Giải pháp chủ yếu thu hút và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hà Nội đến năm 2025, Đề tài cấp thành phố, Hà Nội

8. Nguyễn Thạc Hoát, Nguyễn Thị Đông (2019). Tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế và đầu tư tư nhân của TP. Hà Nội, Tạp chí Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, số 543/2019

TS. Nguyễn Thạc Hoát

TS. Nguyễn Thị Đông

Học viện Chính sách và Phát triển

(Bài được đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 17, tháng 6/2021)