Không thay đổi tư duy, DN Việt sẽ sớm bị loại khỏi “sân chơi” hội nhập
Doanh nghiệp còn mơ hồ về hội nhập
Theo thống kê, hiện nay Việt
Bảng: Các FTA Việt
Tình trạng của Hiệp định
|
Thứ tự
|
Tên hiệp định
|
Năm ký kết | |||
Đã ký kết | Đã có hiệu lực | 1 | Hiệp định Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) | Năm 1995 | ||
2 | Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) | Năm 2002 | ||||
3 | Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Ấn Độ (AIFTA) | Năm 2003 | ||||
4 | Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA) | Năm 2006 | ||||
5 | Hiệp đinh Thương mại Tự do ASEAN – Nhật Bản (AJFTA) | Năm 2008 | ||||
6 | Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) | Năm 2008 | ||||
7 | Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - | Năm 2009 | ||||
| | 8 | Hiệp định Thương mại Tự do Việt | Năm 2011 | ||
| Chưa có hiệu lực | 9 | FTA Việt | Năm 2015 | ||
10 | FTA Việt | Năm 2015 | ||||
11 | Hiệp định Việt | Năm 2015 | ||||
Đang đàm phán | 1 | Hiệp định Thương mại Tự do Việt | | |||
2 | Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) | | ||||
3 | Hiệp định Đối tác Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP) | | ||||
4 | Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN – Hồng Kông (AHKFTA) | | ||||
Việc tham gia các FTA được các chuyên gia đánh giá là cơ hội để phát triển xuất khẩu, khi các quốc gia tham gia FTA sẽ phải giảm thuế cho hàng hóa Việt
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, doanh nghiệp Việt
Trước mắt, doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với những yêu cầu, tiêu chuẩn cao về chất lượng hàng hóa, chịu sức ép phải tuân thủ các điều khoản quy định về vệ sinh, môi trường, lao động và quy trình công nghệ. Những tiêu chuẩn này đối với doanh nghiệp Việt Nam còn ngặt nghèo hơn, bởi đa phần các doanh nghiệp Việt đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, thiếu công nghệ, vốn và kinh nghiệm sản xuất.
Bên cạnh đó, còn có những rủi ro đến từ sự cạnh tranh của các thị trường quốc tế tràn vào nội địa, khi theo cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm khoảng 90% số dòng thuế với thuế suất cuối cùng về mức 0% vào các thời điểm khác nhau tùy từng FTA, trong đó, với những FTA đã ký kết với ASEAN, lộ trình cắt giảm thuế sẽ hoàn thành vào năm 2018; rủi ro từ chính thị trường trong nước với cơ cấu kinh tế, thể chế…
Theo các chuyên gia kinh tế, làn sóng hội nhập đã ở ngay ngưỡng cửa, nhưng nhiều doanh nghiệp nước ta còn “4 chưa”: chưa biết, chưa quan tâm, chưa tìm hiểu và chưa tin những cơ hội do các FTA mang lại.
Nhận định về vấn đề này, trên báo VietnamPlus, TS. Cao Sĩ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cho biết, đến 70% doanh nghiệp chưa nhận thức rõ về tiến trình hội nhập và các nội dung cam kết. Họ cũng chưa xác định được những yếu kém của bản thân để chuẩn bị đối phó, cũng như không biết đâu là tiềm năng, thế mạnh của mình để phát huy và tận dụng cơ hội.
Đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hiểu biết của họ về hội nhập còn chưa có hệ thống. Trong hội nhập, họ không biết sẽ phải làm cái gì, làm từ đâu và làm như thế nào, tác động xấu, tốt ra sao tới thị trường. Họ không biết thị trường thế giới đòi hỏi những gì, các quy định về tiêu chuẩn, chất lượng ra sao.
“Thậm chí, họ không hiểu đâu là những điều cần tránh, trước những rủi ro pháp lý trong thương mại. Chưa kể tới, những hạn chế về trình độ quản lý, về năng lực quản trị doanh nghiệp… Đó chính là những điều mà doanh nghiệp đang cần để tiến tới hội nhập một cách an toàn và chủ động”, TS. Kiêm cho biết.
Tại Hội thảo “Đánh giá tác động của các Hiệp định đầu tư song phương (BITs) và các Hiệp định thương mại tự do (FTAs) đang đàm phán tới các mục tiêu phát triển dài hạn của Việt Nam” ngày 29/6, ông Nguyễn Anh Dương, Phó Trưởng ban Chính sách Kinh tế Vĩ mô, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cũng cho biết, chỉ có 20% doanh nghiệp trong ngành chế biến thực phẩm và điện tử hiểu biết về cắt giảm thuế quan theo các cam kết FTA và 10% doanh nghiệp hiểu biết về những ưu đãi dành cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) cùng ngành. Về hiểu biết chính sách hỗ trợ cho ngành, số doanh nghiệp thuộc 2 lĩnh vực trên cũng chỉ đạt trung bình 10%.
“Những con số trên rõ ràng là điều không vui. Nhất là với các doanh nghiệp thuộc hai ngành mang sứ mệnh và được kỳ vọng trở thành “mũi nhọn” xuất khẩu của Việt
Cần nắm bắt ra sao?
Theo các chuyên gia kinh tế, trong khi doanh nghiệp nội địa nhận thức rất hạn chế về các FTA, thì khối doanh nghiệp FDI đã sớm đón đầu cơ hội. Trong năm 2014 và đầu 2015, các nhà đầu tư lớn từ nước ngoài rầm rộ nhảy vào Việt Nam, thâu tóm một số thương hiệu lớn trong nước và sắp tới sẽ đẩy nhanh việc “bành trướng”. Thậm chí, đã có không ít doanh nghiệp FDI “tranh thủ mặc cả” để “đòi” những ưu đãi đặc biệt, như: trường hợp Samsung liên tục đòi các ưu đãi lớn từ Chính phủ để đổi lại việc đổ tiền đầu tư vào dự án Samsung Electronics CE Complex. Hay Toyota mới đây cũng đưa ra 5 đề xuất để hãng này có thể duy trì sản xuất tại Việt Nam sau năm 2018, trong đó có việc giảm thuế nhập khẩu cho linh kiện lắp ráp và giảm thuế thu nhập doanh nghiệp...
Chính vì vậy, các chuyên gia khuyến cáo, các doanh nghiệp Việt cần phải nhanh chân nếu không sẽ không những không tận dụng được cơ hội của FTA, mà còn bị mất thị phần ngay trên chính sân nhà. Cụ thể 3 việc doanh nghiệp Việt cần nhanh chóng thực hiện, đó là: (1) Tìm hiểu sâu hơn về pháp luật và các cam kết hội nhập, sự thay đổi của các chính sách trong nước để thích nghi; (2) Đẩy mạnh cạnh tranh bằng chất lượng thay vì chỉ tập trung vào cạnh tranh về giá; (3) Tăng cường kết nối vào chuỗi sản xuất toàn cầu.
Trên Sài Gòn Time, chuyên gia kinh tế Nguyễn Đức Minh Hải, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh chia sẻ, để tận dụng được các cơ hội và giảm thiểu rủi ro từ việc tham gia các FTA, cộng đồng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải hành động, xây dựng thương hiệu, nâng cao chất lượng sản phẩm, chú ý gia tăng giá trị cho sản phẩm xuất khẩu, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh. Mặt khác, để giữ được thị trường, các nhà sản xuất trong nước cần chinh phục người tiêu dùng nội địa bằng chất lượng hàng hóa và uy tín trong kinh doanh.
Cũng nhận định về vấn đề này, TS. Cao Sỹ Kiêm hiến kế, để nâng cao sức cạnh tranh trước thềm hội nhập, doanh nghiệp cần đầu tư, trang bị công nghệ để nâng cao năng suất lao động sao cho phù hợp với yêu cầu của các hoạt động kinh tế hiện đại, cũng như với xu hướng phát triển của toàn cầu. Song song với đó, việc đào tạo đội ngũ lao động cũng cần phải được chú trọng nhiều hơn. Bởi, tình trạng thiếu trầm trọng những nhà quản lý giỏi, những nhà hoạch định chính sách hay những nông dân, công nhân lao động có trình độ tay nghề cao đang xảy ra (Thạch Huê, 2015).
Trên báo Hải quan, PGS, TS. Nguyễn Mạnh Quân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển Doanh nghiệp (INBUS) đưa ra một lời khuyên khác dành cho các doanh nghiệp, đó là các doanh nghiệp cần liên kết với nhau và chỉ có thể liên kết thành mạng lưới mới có thể tồn tại được trong xu thế toàn cầu hóa./.
Tham khảo từ:
Lạc Long (2015). Doanh nghiệp tiến trình hội nhập - đối mặt với nhiều nỗi lo, truy cập từ http://www.sggp.org.vn/kinhte/2015/7/391534/
Thạch Huê (2015). Doanh nghiệp Việt chưa tận dụng lợi thế, thế mạnh trong hội nhập, truy cập từ http://www.vietnamplus.vn/doanh-nghiep-viet-chua-tan-dung-co-hoi-the-manh-trong-hoi-nhap/335550.vnp
Xuân Thành (2015). Doanh nghiệp Việt phải dám chơi với người khổng lồ, truy cập từ http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/KinhTe/2015/7/0A652D2EFE203ADF/
Bình luận