Phát triển kinh tế số tại Việt Nam và khuyến nghị chính sách
Tóm tắt
Phát triển kinh tế số đang ngày càng lan tỏa tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam tạo nên sự biến đổi to lớn, nhanh chóng đối với mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội và trở thành một thành phần kinh tế, đóng góp tỷ trọng ngày càng cao trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bài viết khái quát tình hình, xu hướng phát triển kinh tế số tại Việt Nam, từ đó đề xuất một số khuyến nghị, chính sách.
Từ khóa: Kinh tế số, nguồn nhân lực số, trụ cột kinh tế số
Summary
The development of the digital economy is increasingly pervasive in many countries, including Vietnam, creating a great and rapid change in all aspects of economic and social life and becoming an economic sector that has an increasingly high contribution to the national economy. The article summarizes the situation and trend of digital economy development in Vietnam, thereby proposing some recommendations and policies.
Keywords: digital economy, digital human resources, digital economy pillar
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ TẠI VIỆT NAM
Khái niệm “kinh tế số” (Digital economy) được đề cập từ năm 1994. Theo nghĩa hẹp, “kinh tế số” được hiểu là nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua internet. Theo nghĩa rộng, “kinh tế số” là nền kinh tế mà tất cả các hoạt động sử dụng dữ liệu số, có thể được gắn với việc sử dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại như Robot, trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (Internet of Things - IoT), điện toán đám mây, dữ liệu lớn (Big data) và in ba chiều (3D).
Kinh tế số là xu hướng đã và đang diễn ra mạnh mẽ tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Phát triển nền kinh tế số đem lại nhiều lợi ích chủ yếu, đó là: Giảm chi phí giao dịch, rõ nét nhất là trong lĩnh vực công nghệ tài chính (Fintech), bởi các nhu cầu trước đây được thực hiện tại địa điểm nhất định, thì nay đã có thể dễ dàng hoàn tất một cách nhanh chóng ngay trên điện thoại di động; Giảm sự bất cân xứng về thông tin, bởi hệ thống sinh thái được thiết lập từ hoạt động công nghệ giúp tiếp cận nhanh với một lượng lớn người tiêu dùng và nhờ phân tích dữ liệu về sở thích, thói quen người dùng cũng như tập trung vào mục tiêu cung cấp dịch vụ, hoạt động cung cầu phù hợp hơn, hạn chế tối đa sự bất cân xứng về thông tin; Nâng cao hiệu quả mọi hoạt động, bởi với kinh tế số phát triển, nhiều hoạt động được triển khai trên không gian mạng hoặc môi trường số, tiết kiệm thời gian; đồng thời, chất lượng và mức độ tin cậy cũng được cải thiện, tính liên kết trong hoạt động thay đổi theo chiều hướng tích cực.
Mặt khác, kinh tế số đặt ra nhiều yêu cầu, thách thức và khó khăn cần tập trung tháo gỡ với hệ thống giải pháp và lộ trình phù hợp trong mỗi giai đoạn, từ xây dựng hoàn thiện cơ chế, chính sách đến tạo dựng cơ sở hạ tầng kinh tế số đồng bộ, hiện đại và kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn trong môi trường số; đồng thời, không ngừng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực số.
Các đặc trưng nổi bật của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) là: không còn ranh giới giữa các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ thuật số, sinh học; xu hướng kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, IoT và các hệ thống kết nối internet (IoS); quy mô và tốc độ phát triển theo cấp số nhân (chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nhân loại), thời gian từ khi các ý tưởng về công nghệ và đổi mới sáng tạo được phôi thai cho đến khi các ý tưởng đó được hiện thực hóa trong phòng thí nghiệm và thương mại hóa với quy mô lớn các sản phẩm và quy trình mới được tạo ra trên phạm vi toàn cầu được rút ngắn đáng kể.
Những đột phá công nghệ trong nhiều lĩnh vực kể trên đang diễn ra với tốc độ rất nhanh và tương tác, thúc đẩy nhau, tạo ra một thế giới được số hóa, tự động hóa, ngày càng trở nên hiệu quả và thông minh hơn; tác động mạnh mẽ và toàn diện đến thế giới đương đại, phát triển kinh tế số, mô hình kinh tế mới và hướng tác động mang tính tích cực trong dài hạn, song cũng tạo ra nhiều thách thức trong ngắn đến trung hạn. CMCN 4.0 đang “vẽ lại” bản đồ kinh tế trên thế giới với sự suy giảm quyền lực của các quốc gia phụ thuộc vào khai thác tài nguyên và sự gia tăng sức mạnh của các quốc gia dựa chủ yếu vào công nghệ và đổi mới sáng tạo. Theo đó, nhiều quốc gia đang trải qua một quá trình tái cơ cấu nền kinh tế với nhiều thách thức đan xen và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Bắt kịp xu hướng chung, Việt Nam đã chủ động xác định phát triển kinh tế số là bước “bứt phá” trong bối cảnh CMCN 4.0, đồng thời chủ động xây dựng khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh để kinh tế số đi vào cuộc sống.
Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0 đã xác định: “Phát triển kinh tế số là trụ cột, nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia những năm tiếp theo và đề ra mục tiêu vào năm 2025 kinh tế số Việt Nam sẽ chiếm 20% tổng sản phẩm quốc nội và tăng lên 30% vào năm 2030”.
Quyết định số 999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 12/08/2019 phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ với các mục tiêu “Đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp kinh doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ và kinh tế truyền thống; Đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia mô hình kinh tế chia sẻ bao gồm người cung cấp dịch vụ, người sử dụng dịch vụ và doanh nghiệp cung cấp nền tảng; Khuyến khích đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ số và phát triển nền kinh tế số” đã tạo sự chuyển biến trong nhận thức, công nhận hình thức kinh doanh mới trên cơ sở tận dụng các nguồn lực và tài nguyên còn dư thừa trong xã hội, nhằm tối ưu hóa tài nguyên, cũng như các hoạt động kinh tế dựa trên những tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là sự phát triển của cuộc CMCN 4.0.
Tiếp theo, ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đã xác định, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số là trọng tâm chiến lược của Việt Nam trong giai đoạn tới và đặt ra các mục tiêu cụ thể đến 2025 gồm: kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 7%; hạ tầng mạng băng rộng cáp quan phủ rộng trên 80% hộ gia đình, 100% xã, phổ cập mạng di động 4G/5G...
Hành lang pháp lý trên đã “mở đường” cho các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, triển khai đẩy mạnh phát triển kinh tế số, cụ thể: Bộ Khoa học và Công nghệ cùng Cơ quan Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Úc (CSIRO) đã xây dựng 4 kịch bản cho tương lai nền kinh tế số của Việt Nam đến năm 2045, gồm: kịch bản truyền thống, kịch bản chuyển đổi số, kịch bản xuất khẩu số và kịch bản tiêu dùng số với một lộ trình hành động cụ thể; Ngày 03/11/2022, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) ban hành Quyết định số 1887/QĐ-NHNN phê duyệt “Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 411/ QĐ-TTg, ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 2022-2025”; Năm 2020, Bộ Công Thương và chính quyền các cấp đã tổ chức hơn 500 hội nghị xúc tiến thương mại quốc tế đa quốc gia, trên 1 triệu phiên giao dịch với những đối tác quốc tế bằng cả hai hình thức trực tiếp và trực tuyến. Đến năm 2022, 22/22 các bộ, ngành và 63/63 địa phương đã thành lập và kiện toàn Ban chỉ đạo về chuyển đổi số do người đứng đầu làm Trưởng ban; 17/22 bộ, ngành và 57/63 địa phương ban hành chương trình/kế hoạch/đề án chuyển đổi số giai đoạn 5 năm; Số doanh nghiệp công nghệ số thành lập mới năm 2022 tăng 500 doanh nghiệp so với năm 2021 và nhiều doanh nghiệp công nghệ Việt Nam đã làm chủ các công nghệ “lõi”, phát triển khoảng 40 nền tảng số “Made in Viet Nam” [5].
Kinh tế số tại Việt Nam đã diễn ra ngày càng mạnh mẽ tại các địa phương và trong các lĩnh vực, trong đó công nghệ thông tin và truyền thông là nhân tố chính trong chuyển đổi số, các ngành công nghiệp bao gồm: công nghệ tài chính (Fintech), viễn thông, sản xuất linh kiện điện tử, máy tính, dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) là cơ sở cho sự bùng nổ nền kinh tế số, sự chấp nhận văn hóa mới về ngân hàng số và Fintech ngày càng tăng, đặc biệt là đối với những người trẻ và am hiểu về công nghệ. Tăng trưởng và quy mô kinh tế số của Việt Nam so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Bảng.
BẢNG: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ SỐ CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG NAM Á
Đơn vị: Tỷ USD
Năm |
Quốc gia |
||||||
Việt Nam |
Thái Lan |
Singapore |
Philippines |
Malaysia |
Indonesia |
||
2015 |
3 |
6 |
7 |
2 |
5 |
8 |
|
2019 |
12 |
16 |
12 |
7,1 |
10,7 |
40 |
|
2020 |
14 |
18 |
9 |
7,5 |
11,5 |
44 |
|
Tỷ lệ tăng (%) |
16 |
7 |
- 24 |
6 |
6 |
11 |
|
Dự báo năm 2025 |
52 |
53 |
22 |
28 |
30 |
124 |
|
Tỷ lệ tăng (%) |
29 |
25 |
19 |
30 |
21 |
23 |
Nguồn: Tác giả tổng hợp
NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
Phát triển kinh tế số tại Việt Nam là xu hướng tất yếu và bước đầu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia khác, phát triển kinh tế số tại Việt Nam không tránh khỏi một số khó khăn, bất cập rải rác trong các trụ cột của kinh tế số đòi hỏi phải tập trung khắc phục nhằm đạt được mục tiêu đến năm 2025 và những năm tiếp theo. Một số giải pháp được đề xuất bao gồm:
Một là, xây dựng, hoàn thiện thể chế, hành lang pháp lý - trụ cột thứ nhất của kinh tế số. Như đã trình bày và phân tích trên đây, kinh tế số là vấn đề mới, có nội hàm rộng và phức tạp; do đó, cần thường xuyên rà soát, hoàn thiện, bổ sung khung thể chế, pháp lý phục vụ trực tiếp cho kinh tế số, như: nghiên cứu ban hành Luật Công nghiệp công nghệ số, Luật về dữ liệu, sửa đổi Luật Cạnh tranh nhằm xử lý hạn chế cạnh tranh trong thị trường kỹ thuật số…
Hai là, tăng cường đầu tư hạ tầng số - trụ cột thứ hai của kinh tế số. Bản chất kinh tế số đòi hỏi công tác xây dựng hạ tầng số phải đi trước một bước và phát triển đồng bộ, rộng khắp, đảm bảo đáp ứng yêu cầu kết nối, lưu trữ, xử lý dữ liệu, thông tin và các chức năng về giám sát, bảo đảm an ninh, an toàn mạng.
Mặc dù hạ tầng số đã được đầu tư trong thời gian qua, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, trong đó yêu cầu về dữ liệu còn khá nhiều bất cập. Hệ thống dữ liệu hiện nay vẫn còn phân tán, chưa thực sự chia sẻ, kết nối liên thông, công tác bảo mật, an toàn thông tin, bảo đảm an ninh mạng còn tiềm ẩn rủi ro. Vì vậy, cần tăng cường đầu tư hạ tầng số, tập trung vào hạ tầng viễn thông băng rộng, hạ tầng điện toán đám mây…, tạo thuận lợi cho phép người truy cập tài nguyên điện toán dùng chung (mạng, server, lưu trữ, ứng dụng, dịch vụ) thông qua kết nối mạng một cách dễ dàng, mọi lúc, mọi nơi; đồng thời, chú trọng công tác bảo đảm, bảo mật an ninh mạng.
Ba là, phát triển nguồn nhân lực số - trụ cột thứ ba của kinh tế số. Lý luận và thực tiễn luôn khẳng định yếu tố con người đóng vai trò quan trọng, quyết định sự thành bại trong mọi hoạt động và phát triển kinh tế số không phải là ngoại lệ.
Thực tiễn cho thấy, tại hầu hết quốc gia và cả Việt Nam, khởi nguồn kinh tế số chưa có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nguồn nhân lực số. Theo Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, tỷ lệ nhân lực IT trên tổng số lao động của Việt Nam ước đạt 1% và chỉ khoảng 40% doanh nghiệp cho biết có đủ kỹ năng IT và truyền thông để duy trì, khai thác đầy đủ các hệ thống công nghệ số; dự báo, năm 2023 sẽ thiếu hụt khoảng một triệu lao động số [3]. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ nhân lực số đóng vai trò then chốt nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế số đã đạt ra.
Công tác đào tạo nguồn nhân lực kinh tế số cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu như sau:
(i) Đổi mới tư duy lãnh đạo quản lý và năng lực quản trị điều hành, đáp ứng phát triển hệ sinh thái kinh tế số (Digital economy ecosystem). Phát triển kinh tế số là xu hướng tất yếu và năng lực lãnh đạo, quản trị điều hành là trọng tâm của phát triển kinh tế số. Theo đó, cán bộ quản lý, điều hành tại các cơ quan, tổ chức cần xác định “hệ sinh thái kinh tế số là nhóm tác nhân phụ thuộc, bao gồm: doanh nghiệp, con người và vật chia sẻ nền tảng số để đạt được lợi ích và đối tác số của hệ sinh thái sinh học, có kiến trúc mạnh, tự tổ chức và được mở rộng năng động để giải quyết các vấn đề phức tạp, tùy biến cao, sự hội tụ kết nối công nghệ trong một thị trường và hoạt động kinh doanh vì người tiêu dùng mới, doanh nghiệp mới, hiệu năng thị trường và trải nghiệm người dùng”, từ đó có những cải tiến mới trong hành động, ưu tiên tìm kiếm, phát triển công nghệ, hướng đến đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và hiện đại của các chủ thể tham gia thị trường.
(ii) Thường xuyên đào tạo, nâng cao năng lực, trình độ kỹ thuật số cho người lao động theo vị trí việc làm. Kinh tế số phát triển và lan tỏa đến mọi lĩnh vực, mọi tổ chức, cơ quan và doanh nghiệp; do đó, cần xác định cụ thể yêu cầu về năng lực, trình độ kỹ thuật số và khả năng đáp ứng của người lao động theo từng vị trí việc làm cụ thể, từ đó xây dựng và triển khai chương trình, kế hoạch đào tạo cho phù hợp về nội dung và hình thức tổ chức đào tạo bồi dưỡng, kết hợp đào tạo tại chỗ và cử đi đào tạo, đồng thời tạo điều kiện để người lao động tự nghiên cứu, vừa bảo đảm công việc của đơn vị, vừa ổn định thu nhập cho người lao động.
(iii) Xây dựng và phát triển đội ngũ chuyên gia kinh tế số cao cấp là những người có đủ kiến thức và kỹ năng đa lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế, quản lý, xã hội… nhằm định hình phát triển kinh tế số là cấp thiết, có ý nghĩa lớn và không thể hoàn thành trong ngắn hạn.
Đào tạo, nâng cao năng lực trình độ kỹ thuật số cho nhân lực kinh tế số tương lai cần triển khai trong hệ thống giáo dục quốc dân, từ trung học phổ thông (THPT) đến giáo dục nghề nghiệp (GDNN) và giáo dục đại học (GDĐH), trong đó chủ lực là giáo dục đại học, cụ thể là:
Đối với giáo dục phổ thông, các trường THPT nên trang bị một số kiến thức cơ bản, như: giới thiệu về tài khoản, cách phân biệt account mail và account wifi; cách đổi mật khẩu (password), cách tự đăng ký địa chỉ MAC để truy cập hệ thống tài nguyên mạng của trường… Từ đó, giúp học sinh THPT vừa nâng cao khả năng tư duy, sự tự tin và sáng tạo, vừa sớm có định hướng nghề nghiệp phù hợp trong tương lai.
Đối với GDNN, các cơ sở đào tạo cần nắm bắt nhu cầu về nhân lực số của các doanh nghiệp kinh doanh trong từng lĩnh vực, từng ngành/nghề, từ đó vừa truyền thông về nội dung chương trình và khả năng, cơ hội việc làm để thu hút người học, vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực có chất lượng của doanh nghiệp, vừa tổ chức triển khai tốt 2 hình thức liên kết đào tạo trong GDNN theo Thông tư số 05/2022/ TT-BLĐTBXH, ngày 05/4/2022 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Đối với các cơ sở GDĐH, yêu cầu đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế số cần được triển khai đồng bộ, có lộ trình phù hợp với khả năng, điều kiện của từng cơ sở GDĐH theo hướng, rà soát, cải tiến và đổi mới, nâng cao chương trình hiện có; nghiên cứu xây dựng, bổ sung chương trình mới đến tổ chức giảng dạy, quản lý và hỗ trợ đào tạo trên nền tảng số, cụ thể:
- Rà soát, cải tiến, đổi mới, nâng cao chương trình hiện có và nghiên cứu xây dựng, bổ sung chương trình mới một cách bài bản hơn, bắt đầu từ phân tích, đánh giá và dự báo tác động của phát triển kinh tế số đến các lĩnh vực, ngành/nghề để khảo sát, xác định nhu cầu đào tạo, xác định mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của chương trình đào tạo theo thông lệ quốc tế, bảo đảm tiêu chí SMART.
- Tổ chức giảng dạy, quản lý và hỗ trợ đào tạo trên nền tảng số cần chú trọng các vấn đề, như: (1) Đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực số của đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và hỗ trợ đào tạo phù hợp với vị trí làm việc trên cơ sở kế thừa Khung năng lực số với các nhóm năng lực cơ bản do UNESCO xác định; (2) Phát triển kho học liệu số phục vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Kho học liệu số là các nguồn tài nguyên số đóng vai trò quan trọng trong GDĐH giúp người học tự học trong thời gian và tốc độ riêng, phù hợp với khả năng, điều kiện của bản thân.
- Tăng cường hợp tác giữa các cơ sở GDĐH trong nước và nước ngoài và hợp tác của cơ sở GDĐH với các doanh nghiệp và các bên liên quan./.
PGS, TS. TRƯƠNG QUỐC CƯỜNG - Học viện Ngân hàng
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 11 - tháng 4/2023)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Thị Việt Đức (2020), Sách chuyên khảo “Kinh tế số - thực trạng và hướng phát triển tại Việt Nam”, Nxb Giáo dục Việt Nam.
2. Michael E. Porter (2008), Sách chuyên khảo “Lợi thế cạnh tranh”, Nxb Trẻ.
3. Paul A. Samuelson- William D. Nordhaus (1997), Sách chuyên khảo “Kinh tế học”, Nxb Chính trị Quốc gia.
4. Thanh Bình, Vũ Nhật Quang (2022), Giải pháp phát triển kinh tế số ở Việt Nam trong bối cảnh Covid-19, truy cập từ https://tapchinganhang.gov.vn/giai-phap-phat-trien-kinh-te-so-o-viet-nam-trong-boi-canh-covid-19.htm.
5. Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số (2022), Tài liệu phiên họp trực tuyến lần thứ ba, Hà Nội ngày 08/8/2022.
Bình luận