Nguyên nhân chính dẫn đến IIP tháng 10 tăng chậm là do tốc độ tăng cửa nhiều ngành công nghiệp cấp I và cấp II đều chậm hơn so với tháng trước.

Cụ thể là, IIP tháng 10 ước tính tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 6,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,1%; sản xuất và phân phối điện tăng 12,3%; cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 9,4%. Nếu so sánh với tháng 9/2015, thì 3/4 ngành cấp I là: khai khoáng (tháng 9 đạt 8,3%), công nghiệp chế biến, chế tạo (tháng 9 đạt 10,3%) và sản xuất và phân phối điện (tháng 9 đạt 13,5%) có tốc độ tăng chậm hơn so với tháng trước. Hơn nữa, đây đều là những ngành có đóng góp chính vào giá trị sản xuất công nghiệp chung. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn IIP tháng 10 có tốc độ tăng thấp nhất trong kể từ tháng 02/2015.

Tính chung 10 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2014 tăng 6,9%). Trong các ngành công nghiệp, ngành khai khoáng tăng 8,4%, đóng góp 2,1 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành chế biến, chế tạo tăng 10%, đóng góp 6,8 điểm phần trăm; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 11,5%, đóng góp 0,7 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 7,4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 10 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và quang học tăng 38,9%; sản xuất xe có động cơ tăng 27,4%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 16,8%; dệt tăng 15,6%. Nếu so sánh với tháng 9/2015, có thể thấy rằng, tốc độ tăng của các ngành này đều chậm hơn. Cụ thể: trong tháng 9, ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và quang học tăng 44,1%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 19,2%; dệt tăng 17%... Đây cũng là một nguyên nhân khiến tốc độ tăng của IIP tháng 10 đạt mức thấp.

Trong tháng 10 chậm, một số sản phẩm công nghiệp có chỉ số sản xuất tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: ô tô tăng 54,5%; ti vi tăng 49,6%; điện thoại di động tăng 42,6%; thép cán tăng 18,7%; giày, dép da tăng 18,1%; sữa bột tăng 17,9%; sữa tươi tăng 15,3%... Một số sản phẩm tăng khá: Điện sản xuất tăng 12,2%; sơn hóa học tăng 10,4%; xi măng tăng 10,4%; dầu thô tăng 10,4%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Bia tăng 6,8%; nước máy thương phẩm tăng 6,6%; thủy sản chế biến tăng 4,9%; than đá tăng 4,9%; quần áo mặc thường tăng 4,4%; thuốc lá điếu tăng 2,6%; sắt thép thô giảm 1%; xe máy giảm 12,2%.

Thái Nguyên tiếp tục dẫn đầu cả nước về tốc độ tăng của IIP. Theo đó, tháng 10/2015, Thái Nguyên có IIP tăng 121,9%; tiếp theo là Quảng Nam tăng 31,9%; Hải Phòng tăng 15,2%; Hải Phòng tăng 15,8%; Đà Nẵng tăng 14,1%; Hải Dương tăng 10,3%; Bình Dương tăng 9,2%...

Trong khi đó, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 09/2015 tăng 5,3% so với tháng trước và tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, chỉ số tiêu thụ tăng 13,1% so với cùng kỳ năm 2014, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 53,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 27,6%; sản xuất kim loại tăng 23,2%.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/10/2015 tăng 9,8% so với cùng thời điểm năm trước. Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 9 tháng năm 2015 là 73,6%. Trong đó, một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu là 142,5%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 113,4%; sản xuất chế biến thực phẩm 100,2%.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/10/2015 tăng 6,9% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 1,9%; doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 5,2%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 9,7%.

Tại các tỉnh, thành phố trên cả nước, lao động của các doanh nghiệp tại thời điểm 01/10/2015 so với cùng thời điểm năm 2014 của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quy mô công nghiệp lớn, như sau: Thái Nguyên tăng 50,3%; Quảng Nam tăng 13,4%; Vĩnh Phúc tăng 10,8%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 10,2%; Bình Dương tăng 9,3%; Đà Nẵng tăng 4,8%; Đồng Nai tăng 4,5%; Hải Dương tăng 3,1%; Cần Thơ tăng 1,9%; TP. Hồ Chí Minh tăng 0,9%.../.