Nghiên cứu trên được công bố tại hội thảo Khả năng áp dụng và tác động của thuế tài sản ở Việt Nam, do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức sáng ngày 12/12.

Đóng góp thuế tài sản ở Việt Nam đang rất thấp

Phát biểu tại hội thảo, PGS, TS. Nguyễn Đức Thành cho rằng, vấn đề thuế tài sản là không mới, đã được thảo luận cách đây hơn 10 năm ở Việt Nam.

Gần đây, việc Bộ Tài chính đưa ra dự thảo Luật Thuế tài sản đã gây xôn xao dư luận. Trong bối cảnh đó, VEPR và Oxfam phối hợp nghiên cứu vấn đề này để việc xem xét các vấn đề lý thuyết, kinh nghiệm quốc tế, thực tiễn ở Việt Nam từ đó đưa ra các gợi ý chính sách cho việc xây dựng Luật Thuế tài sản.

Để hiểu rõ hơn về vấn đề thuế tài sản, ông Đinh Tuấn Minh,Công ty Viet Analytics chỉ ra, đây là khái niệm rất rộng, có thể hiểu thuế tài sản là thuế đánh trên đất đai, tòa nhà và động sản.

Đặc điểm chung của hệ thống thuế tài sản là xác định rõ đối tượng nộp thuế, đối tượng đánh thuế, cơ sở thuế, mức thuế và các đối tượng miễn trừ, hệ thống quản lý và thu thuế.

“Hiện nay, hệ thống thuế tài sản trên thế giới rất phức tạp và khác nhau. Cách đặt tên thuế tài sản trên thế giới cũng khác nhau, nhiều nước thường dùng tên cụ thể hơn như thuế đất đai, thuế tài sản thực, thuế của cải ròng… “, PGS, TS. Vũ Sỹ Cường, Học viện Tài chính bổ sung thêm.

Phân bổ nguồn thu từ thuế bất động sản theo các cấp cũng không giống nhau giữa các nước. Phần lớn phân bổ cho địa phương, nhưng cũng có những nước thuộc hoàn toàn về trung ương.

Thuế tài sản, đặc biệt là thuế bất động sản tuy không phải là nguồn quan trọng đối với ngân sách quốc gia, nhưng là nguồn thu quan trọng ở địa phương tại hầu hết các nước, giúp cải thiện chi tiêu công tại các địa phương.

“Tại Thái Lan, thuế bất động sản chiếm tới 80% thu ngân sách địa phương, ở Chile là 36% và tại Ba Lan là 40%...”, PGS, TS. Cường lấy ví dụ.

PGS, TS. Vũ Sỹ Cường cho biết, hệ thống thuế tài sản trên thế giới rất phức tạp

So với thuế bất động sản tại các nước, đóng góp của thuế sử dụng đất phi nông nghiệp tại Việt Nam còn khiêm tốn. Cụ thể, theo PGS, TS. Vũ Sỹ Cường, thực tế tại Việt Nam, thuế tài sản đã được áp dụng từ lâu như thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, nhưng loại thuế này chỉ đóng góp 0,03-0,06% GDP mỗi năm, thu xa các nước trên thế giới.

Đóng góp cho ngân sách địa phương cũng khiêm tốn, đạt từ 5-7%, thậm chí nhiều nơi chỉ chiếm 2%. Nguyên nhân một phần xuất phát từ việc Việt Nam xác định giá thuế trên cơ sở nhà nước, nên mặc dù thu thuế, nhưng không đáng bao nhiêu. Trong khi ở các nước lại xác định cơ sở thuế dựa trên giá thị trường.

Tác động lớn đến chủ hộ nữ và người cao tuổi

Sử dụng số liệu từ khảo sát Mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2016 của Tổng cục Thống kê, TS. Nguyễn Việt Cường, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã đưa ra dự báo ảnh hưởng của Luật Thuế tài sản lên phúc lợi hộ gia đình.

Xây dựng các kịch bản nghiên cứu thuế tài sản với các ngưỡng chịu thuế 700 triệu đồng, 1 tỷ đồng, 2 tỷ đồng; với thuế suất 0,3% và 0,4%, TS. Cường chỉ ra:

Đối với ngưỡng 700 triệu đồng, nếu thuế suất 0,3% thì mức thuế mỗi hộ phải nộp là 978 nghìn đồng (bằng 0,66% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 638 nghìn đồng (bằng 0,27% tổng chi tiêu).

Nếu thuế suất là 0,4%, mức thuế mỗi hộ phải nộp là 1,3 triệu đồng (bằng 0,89% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 851 nghìn đồng (bằng 0,36% tổng chi tiêu).

Đối với ngưỡng 1 tỷ đồng, nếu thuế suất là 0,3%, mức thuế mỗi hộ phải nộp là 897 nghìn đồng (bằng 0,61% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 600 nghìn đồng (bằng 0,25% tổng chi tiêu).

Nếu thuế suất là 0,4%, mức thuế mỗi hộ phải nộp là 1,198 triệu đồng (bằng 0,82% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 800 nghìn đồng (bằng 0,34% tổng chi tiêu).

Đối với ngưỡng 2 tỷ đồng, nếu thuế suất là 0,3%, mức thuế mỗi hộ phải nộp là 763 nghìn đồng (bằng 0,53% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 525 nghìn đồng (bằng 0,22% tổng chi tiêu).

Nếu thuế suất là 0,4%, mức thuế mỗi hộ phải nộp là 1,019 triệu đồng (bằng 0,72% tổng thu nhập), mức chi tiêu giảm đi là 700 nghìn đồng (bằng 0,29% tổng chi tiêu).

Như vậy, có thể thấy phương án thuế suất 0,3% và ngưỡng chịu thuế 2 tỷ đồng đối với nhà ở là có tác động nhỏ nhất với hộ gia đình. Phương án thuế suất 0,4% và ngưỡng chịu thuế 1 tỷ đồng đối với nhà ở có tác động nhỏ hơn đến các hộ gia đình nhưng vẫn duy trì được doanh thu thuế cao.

Khảo sát của TS. Nguyễn Việt Cường cũng cho thấy, thuế tài sản làm giảm thu nhập khả dụng, chi tiêu thực tế và tăng tỷ lệ nghèo nếu việc thu thuế áp dụng chặt chẽ.

Bên cạnh đó, các hộ gia đình có chủ hộ là nữ, chủ hộ nhiều tuổi, chủ hộ học vấn cao bị ảnh hưởng nhiều hơn các hộ có chủ hộ là nam giới, trẻ tuổi và học vấn thấp, vì đa phần chủ hộ là nữ có tỷ lệ độc thân, ở góa cao hơn, thường có tài sản nhiều hơn.

Mặt khác, hộ gia đình có nhiều người cao tuổi ảnh hưởng nhiều hơn, vì đây cũng là những đối tượng có nhiều tài sản hơn. Đặc biệt, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra tác động của thuế tài sản tác động lên khu vjec thành thị và các vùng đồng bằng cao hơn khu vực nông thôn và miền núi; các nhóm dân tộc Kinh, Tày Mường chịu ảnh hưởng nhiều hơn các nhóm dân tộc khác.

Nếu dự thảo Luật Thuế tài sản được thông qua sẽ làm giảm thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình. Tuy nhiên, nó không ảnh hưởng tới đói nghèo và chủ yếu làm giảm thu nhập của người giàu. Do đó, chỉ số bất bình đẳng được cải thiện, nhưng chủ yếu do người giàu bị nghèo đi chứ không phải do người nghèo được cải thiện. Đáng lẽ, người nghèo phải giàu hơn để tiệm cận với người giàu. Vì thế, đây sẽ không phải một sắc thuế bền vững nếu chi tiêu công không thúc đẩy phúc lợi và năng suất toàn xã hội.

“Theo kinh nghiệm quốc tế, thuế bất động sản là loại thuế địa phương, do địa phương tiến hành thu và quản lý, có quyền hạn nhất định trong việc đặt ra thuế suất. Việc áp dụng luật thuế đại trà cả nước như trong dự thảo là đi ngược lại với thông lệ quốc tế, khó thực hiện”, PGS, TS. Nguyễn Đức Thành lo ngại.

Trong bối cảnh đó, PGS, TS. Nguyễn Đức Thành đề xuất, một số sản phẩm lâu bền được coi là tài sản cần lưu ý tránh áp thuế tài sản để tránh bị trùng, hoặc có thể sử dụng các loại thuế khác tiện lợi hơn, như thuế trước bạ hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt.

Bên cạnh đó, cần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của ngân sách ở mọi cấp quốc gia. Đặc biệt, muốn cải thiện mức thu, nhận được sự đồng thuận của người dân, thì cần nâng tính giải trình trong các khoản chi ngân sách. Hơn nữa, việc cải thiện ngân sách cần bắt nguồn từ tiết kiệm chi, chứ không phải việc tăng cường thu./.