Từ khóa: chuyển đổi số, doanh nghiệp nhỏ và vừa, Singapore, Việt Nam

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trên thế giới, CĐS bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng năm 2015, phổ biến từ năm 2017. Đặc biệt, trong những năm gần đây, CĐS đã trở thành một nội dung quan trọng mang tính quốc gia (Bharadwaj và cộng sự, 2013; Vũ Thanh Nguyên và cộng sự, 2023) cũng như đối với các doanh nghiệp (Fitzgerald và cộng sự, 2014; Westerman và cộng sự, 2011).

Tại Việt Nam, CĐS trong doanh nghiệp được hiểu là quá trình thay đổi từ mô hình truyền thống sang doanh nghiệp số bằng cách áp dụng công nghệ số, tiêu biểu như: trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data) và điện toán đám mây (Cloud Computing)... thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa doanh nghiệp. CĐS doanh nghiệp có thể thực hiện thông qua việc tư duy lại hướng kinh doanh, đánh giá lại chuỗi giá trị, kết nối với khách hàng và cấu trúc lại doanh nghiệp (Bộ Thông tin và Truyền thông, 2021). Hiện nay, CĐS là vấn đề cấp thiết cho tất cả doanh nghiệp ở mọi quy mô. Nó giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động, trải nghiệm khách hàng và đặc biệt là khả năng cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, đối với những DNNVV với số vốn ít và khả năng đầu tư vào công nghệ còn hạn chế, họ nên làm gì để CĐS?

Theo nghiên cứu của Bộ Thông tin và Truyền thông, cơ quan thường trực Ủy ban quốc gia về CĐS, tại một số nước trên thế giới, việc hỗ trợ các DNNVV đã được đưa vào các chương trình nghị sự quan trọng của chính phủ, điển hình là Singapore. Vậy, thực tế việc hỗ trợ CĐS ở các DNNVV của Chính phủ Singapore diễn ra như thế nào? Và, Việt Nam có thể rút ra những bài học gì từ đó để thúc đẩy các DNNVV CĐS?

THỰC TẾ HỖ TRỢ CÁC DNNVV CHUYỂN ĐỔI SỐ Ở SINGAPORE

Tại Singapore, các DNNVV chiếm tới 99% tổng số doanh nghiệp, đóng góp 50% GDP và cung cấp việc làm cho 2/3 lực lượng lao động tại quốc gia. Trong những năm gần đây, Singapore đã triển khai một loạt sáng kiến và chương trình để đẩy nhanh tốc độ số hóa cho các DNNVV. Theo đó, mỗi chương trình nhắm đến một đối tượng và phạm vi cụ thể.

Chương trình trợ giúp DNNVV CĐS đầu tiên là “SMEs Go Digital” được Cơ quan Phát triển Thông tin và Truyền thông (IMDA) của Singapore triển khai từ tháng 4/2017. Mục đích của chương trình nhằm hỗ trợ các DNNVV trên hành trình CĐS, giúp các DNNVV sử dụng công nghệ số và xây dựng năng lực kỹ thuật số mạnh mẽ, nắm bắt được cơ hội tăng trưởng trong nền kinh tế số. Tính đến tháng 3/2022, đã có 80.000 DNNVV được tiếp cận và sử dụng giải pháp công nghệ số từ Chương trình. Liên quan đến thúc đẩy số hóa, Chương trình dã triển khai các kế hoạch kỹ thuật số công nghiệp (Industry Digital Plans - IDP) theo từng lĩnh vực cụ thể. IDP cung cấp cho các DNNVV bản hướng dẫn từng bước về các giải pháp kỹ thuật số để áp dụng và đào tạo phù hợp cho nhân viên của họ ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Cho đến nay, IMDA đã triển khai IDP cho 17 lĩnh vực: (1) Dịch vụ môi trường; (2) Dịch vụ thực phẩm; (3) Logistics (bao gồm vận tải hàng không); (4) Truyền thông; (5) Bán lẻ; (6) An ninh; (7) Thương mại bán buôn; (8) Vận tải biển; (9) Kỹ thuật chính xác (bao gồm hàng không vũ trụ và điện tử); (10) Kế toán; (11) Khách sạn; (12) Xây dựng và quản lý cơ sở vật chất; (13) Giáo dục cho trẻ em từ sớm; (14) Đào tạo và giáo dục người lớn; (15) Vận tải đường bộ; (16) Sản xuất thực phẩm; (17) Kỹ thuật hàng hải và ngoài khơi, năng lượng và hóa chất. Một cuộc khảo sát các DNNVV năm 2021 của IMDA cho thấy, các giải pháp kỹ thuật số do IDP đề xuất đã mang lại sự cải thiện về hiệu quả tổng thể trong quy trình làm việc. Trong đó, 85% doanh nghiệp được hỏi thấy tiết kiệm thời gian; 75% doanh nghiệp cho biết các giải pháp kỹ thuật số tiết kiệm nhân lực, giúp họ ít phụ thuộc hơn vào lao động chân tay, từ đó cho phép họ giữ và phát triển nhân tài cho các công việc giá trị hơn.

Tháng 01/2019, IMDA cùng Enterprise Singapore (ESG) triển khai sáng kiến Start Digital nhằm giúp các DNNVV mới thành lập và những doanh nghiệp chưa số hóa bắt đầu với các giải pháp kỹ thuật số thông qua các nền tảng cơ bản, nhất là ngân hàng và các công ty viễn thông. IMDA cung cấp danh sách các giải pháp trước đó đã được phê duyệt và được đánh giá là đã được thị trường chứng minh, hiệu quả về mặt chi phí và được hỗ trợ bởi các nhà cung cấp đáng tin cậy, các DNNVV quan tâm thực hiện theo các giải pháp này sẽ được Chính phủ hỗ trợ. Tiếp đó, tháng 6/2020, Grow Digital do IMDA và ESG đồng phát triển, chính thức ra mắt, giúp các DNNVV vươn ra toàn cầu. Đây là nơi các DNNVV có thể tham gia vào các nền tảng thương mại điện tử B2B và B2C để bán hàng ra nước ngoài mà không cần phải hiện diện ở đó. Nhóm nền tảng thương mại điện tử sẽ được mở rộng để tăng khả năng tiếp cận thị trường toàn cầu của các DNNVV.

Ngoài ra, đánh giá được tình hình các DNNVV thường xuyên phải đối mặt với các vấn đề tài chính và những trở ngại tín dụng từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính; đồng thời, các DNNVV đều mong muốn mở rộng và tái cơ cấu, Chính phủ Singapore đã đưa ra các giải pháp hỗ trợ tài chính cho các DNNVV. Các chương trình vay vốn dễ dàng hơn với các DNNVV, giúp giảm bớt gánh nặng cho các doanh nghiệp nhỏ, cho phép họ giải quyết vấn đề tài chính trước mắt và tạo điều kiện tìm kiếm cơ hội phát triển, nâng cao tín dụng. Đặc biệt, với các doanh nghiệp thực hiện CĐS theo các giải pháp được thiết kế và cung ứng bởi các nhà cung cấp dịch vụ có chất lượng, đáng tin cậy và cạnh tranh về chi phí sẽ được Chính phủ tài trợ tới 80% chi phí thực hiện. Sự hỗ trợ về tài chính còn thể hiện ở việc thực hiện chính sách miễn, giảm thuế của Chính phủ. Với chính sách thuế mới thay đổi sau năm 2020, các doanh nghiệp mới thành lập, hội tụ đủ điều kiện được hưởng các ưu đãi về thuế trong 3 năm đầu sau khi thành lập, giảm 75% đối với 100.000 USD thu nhập chịu thuế đầu tiên và 50% đối với 100.000 USD thu nhập chịu thuế tiếp theo (Global Link Asia Consulting, 2024).

Thúc đẩy chuyển đổi số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam: bài học từ Singapore
Ảnh minh họa

Như vậy, ngoài các hỗ trợ về tài chính và tín dụng, các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp CĐS của Chính phủ Singapore được tiến hành mạnh mẽ và toàn diện trên mọi lĩnh vực. Trong từng ngành, các bước để tiến hành CĐS được đưa ra cụ thể với các giải pháp tương ứng nhằm mục đích không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình CĐS và hướng tới xây dựng doanh nghiệp số bền vững.

THỰC TRẠNG CĐS CỦA CÁC DNNVV Ở VIỆT NAM

Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê, Việt Nam hiện có khoảng 800.000 doanh nghiệp, trong đó DNNVV chiếm khoảng 97%, sử dụng 51% lao động và đóng góp hơn 40% GDP. Với đóng góp như vậy, DNNVV ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, các DNNVV với quy mô hạn chế, trở nên yếu thế trước những biến động của môi trường kinh doanh, môi trường xã hội. Vì vậy, để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, việc ứng dụng công nghệ, thực hiện CĐS chính là chìa khóa để đạt được mục tiêu này.

Những năm qua, các DNNVV luôn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ từ Chính phủ. Ngày 26/8/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 80/2021/NÐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ DNNVV. Trong đó, DNNVV được hỗ trợ 50% nếu thuê, mua các nền tảng, giải pháp CĐS do Bộ Thông tin và Truyền thông chứng nhận, công bố. Hay Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Các văn bản trên đã tạo hành lang pháp lý và huy động nguồn lực Chính phủ để hỗ trợ cho hoạt động CĐS của DNNVV, đồng thời cũng cho thấy sự tiệm cận về quan điểm CĐS của Chính phủ Việt Nam với lý luận, nghiên cứu và triển khai CĐS trên thế giới.

Trong năm 2022, Bộ Thông tin và Truyền thông cùng các địa phương đã triển khai Chương trình hỗ trợ DNNVV CĐS (SMEdx) năm 2022; cùng với việc hình thành mạng lưới tư vấn kinh tế số và tổ chức mạng lưới tổ công nghệ số cộng đồng đến cấp xã để có đầu mối hỗ trợ người dân triển khai. Điểm mới của SMEdx năm 2022 chính là bộ công cụ đánh giá mức độ CĐS của doanh nghiệp (DBI). Bộ công cụ này đánh giá 3 nhóm doanh nghiệp (DNNVV, doanh nghiệp lớn, tập đoàn và các tổng công ty) với 6 trụ cột: (1) Trải nghiệm số cho khách hàng; (2) Chiến lược; (3) Hạ tầng và công nghệ số; (4) Vận hành; (5) CĐS văn hóa doanh nghiệp; (6) Dữ liệu và tài sản thông tin. Trong mỗi trụ cột có các chỉ số thành phần và trong mỗi chỉ số thành phần có các tiêu chí. Đây được coi là bộ công cụ, thước đo đánh giá mức độ sẵn sàng, mức độ CĐS của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh dùng chung trên cả nước. Doanh nghiệp có thể chủ động dựa vào hiện trạng, đối chiếu với các tiêu chí trong bộ chỉ số này, từ đó xác định tình hình CĐS của doanh nghiệp mình. Số lượng DNNVV tiếp cận với nền tảng SMEdx đã tăng mạnh, từ 190 nghìn doanh nghiệp vào tháng 4/2022 đã tăng lên hơn 490 nghìn doanh nghiệp vào tháng 9/2022, tăng 250%.

SMEdx năm 2022 đã chọn được 23 nền tảng số “made in Vietnam” xuất sắc để công bố, giới thiệu tới các doanh nghiệp qua trang web Smedx.vn. Trong đó, nền tảng được doanh nghiệp sử dụng nhiều nhất là nền tảng kế toán dịch vụ số MISA ASP với 4.965 DNNVV được hỗ trợ triển khai.

Ngoài ra, Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp CĐS giai đoạn 2021-2025 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mục tiêu tới năm 2025, có 100% doanh nghiệp được nâng cao nhận thức về CĐS; tối thiểu 100.000 doanh nghiệp được nhận các hỗ trợ từ Chương trình và tối thiểu 100 doanh nghiệp được hỗ trợ là các thành công điển hình trong CĐS. Theo thống kê, đến tháng 12/2022 đã có gần 2 triệu lượt tiếp cận thông tin; hơn 500.000 lượt tiếp cận tài liệu, video đào tạo, chia sẻ hướng dẫn CĐS; 150 doanh nghiệp được hỗ trợ tư vấn, đào tạo chuyên sâu 1-1 về tư vấn xây dựng lộ trình CĐS, chuyển đổi, hoàn thiện quy trình, sản phẩm, hỗ trợ ứng dụng các giải pháp CĐS; mạng lưới với 100 tổ chức, cá nhân cung cấp giải pháp, tư vấn, đào tạo CĐS cho doanh nghiệp. Tiếp tục chuỗi hoạt động đào tạo CĐS cho doanh nghiệp tại 30 tỉnh/thành trong năm 2022, từ tháng 4 đến tháng 6/2023, trong khuôn khổ Chương trình Hỗ trợ doanh nghiệp CĐS giai đoạn 2021-2025, Cục Phát triển doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) thông qua dự án Thúc đẩy cải cách và nâng cao năng lực kết nối của DNNVV (USAID LinkSME) tổ chức thành công 10 khóa đào tạo tại các tỉnh: Gia Lai, Bình Thuận, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Hà Nội, Đắk Nông, Vĩnh Long, Sơn La… Như vậy, Chương trình đã đào tạo về CĐS cho hơn 10.000 doanh nghiệp tại 40 địa phương.

Bên cạnh đó, để giảm thiểu gánh nặng cho doanh nghiệp, các bộ đã chủ động xây dựng các nền tảng dùng chung hỗ trợ doanh nghiệp, như: nền tảng điện toán đám mây doanh nghiệp, nền tảng tối ưu hóa chuỗi cung ứng, nền tảng sàn thương mại điện tử, nền tảng kế toán dịch vụ…

Ở cấp độ địa phương, chính quyền địa phương tích cực áp dụng nhiều chính sách và giải pháp về xây dựng cơ sở pháp lý, tổ chức đào tạo, truyền thông, cung cấp các hỗ trợ CĐS cho doanh nghiệp, như: ban hành Kế hoạch hỗ trợ CĐS cho DNNVV trên địa bàn; tổ chức các hội thảo và đối thoại về CĐS trong doanh nghiệp; thúc đẩy các hoạt động CĐS của doanh nghiệp trên địa bàn.

Mặc dù được sự hỗ trợ của Chính phủ cùng sự đồng hành của các bộ, ngành, địa phương, song trên thực tế, việc tham gia vào quá trình CĐS của các DNNVV còn chậm bởi đối mặt với nhiều thách thức. Một trong những thách thức lớn nhất, đó là doanh nghiệp nhận thức chưa đầy đủ về CĐS. Họ cho rằng, CĐS tốn nhiều chi phí, lo lắng về vấn đề thiếu nhân lực công nghệ, vấn đề bảo mật thông tin nội bộ, bí mật kinh doanh… Đặc biệt, doanh nghiệp khó khăn trong việc xác định hướng đi, lộ trình CĐS cụ thể. Hiện nay, DNNVV mới chỉ đủ khả năng chi trả cho sản xuất cơ bản, trong khi đầu tư lớn cho CĐS, thì không phải doanh nghiệp nào cũng làm được ngay, bởi vướng các vấn đề chi phí, tư vấn, định giá, giải pháp thực hiện... Bên cạnh đó, vấn đề vay vốn ngân hàng cũng gặp khó khăn do nhiều DNNVV chưa đáp ứng được yêu cầu vay vốn ngân hàng, năng lực quản lý dòng vốn.

Báo cáo của Cisco năm 2020, thực hiện trên 1.424 doanh nghiệp ở 14 nước châu Á - Thái Bình Dương cho thấy, tại Việt Nam, các DNNVV đang phải đối mặt với những rào cản trong quá trình CĐS, như: thiếu các công nghệ hỗ trợ quá trình CĐS (12%), 14% doanh nghiệp không biết bắt đầu quá trình CĐS từ đâu và rào cản lớn nhất đó là thiếu tư duy kỹ thuật số (16%). Cũng theo kết quả của báo cáo này, ưu tiên CĐS của các DNNVV tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào tăng trưởng và mở rộng thị trường (28%), cải thiện doanh số bán hàng, chiến lược tiếp thị sản phẩm (21%) và 18% DNNVV ưu tiên giới thiệu các sản phẩm và dịch vụ mới hoặc cải thiện những sản phẩm và dịch vụ đã có.

KẾT LUẬN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Từ thực tế hỗ trợ CĐS dành cho các DNNVV ở Singapore và kết quả đạt được đến thời điểm hiện tại của các DNNVV ở Việt Nam, có thể thấy, so với Singapore trên khía cạnh thực hiện, chương trình hành động và giải pháp của Việt Nam còn khá mông lung, chưa mang lại kết quả như kỳ vọng. Vì vậy, để thúc đẩy việc tham gia vào quá trình CĐS của các DNNVV nhanh chóng và hiệu quả, Việt Nam cần rút ra bài học sâu sắc từ kinh nghiệm CĐS của các nước khác, đặc biệt là Singapore, với các biện pháp mạnh mẽ và toàn diện.

Thứ nhất, việc hỗ trợ, tư vấn về lộ trình CĐS, hỗ trợ ứng dụng giải pháp CĐS phải được thực hiện linh hoạt để phù hợp với đặc trưng của từng doanh nghiệp, từng ngành hẹp. Để làm được điều đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về hỗ trợ DNNVV CĐS, phổ biến nâng cao kiến thức về CĐS trong doanh nghiệp; các bộ, ngành và địa phương cần có các khóa tập huấn, đào tạo, tư vấn, hỗ trợ về lộ trình CĐS cho DNNVV phù hợp với thực tế tại mỗi doanh nghiệp trong từng ngành cụ thể và tại mỗi địa phương. Ngoài ra, cần kết hợp với tuyên truyền về những mô hình CĐS thành công của doanh nghiệp để làm bài học kinh nghiệm, lan tỏa trong cộng đồng doanh nghiệp.

Đặc biệt, nền tảng số là một công cụ hữu hiệu giúp doanh nghiệp CĐS, nâng cao năng lực cạnh tranh. Các bộ, ngành cũng cần quyết liệt chỉ đạo việc sử dụng các nền tảng số quốc gia dùng chung; kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống, cơ sở dữ liệu chuyên ngành với các nền tảng số quốc gia nhằm đồng bộ, liên thông, tạo hệ sinh thái CĐS, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; tăng cường lựa chọn các nền tảng “Make in Vietnam” để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước và giảm tải chi phí. Ngoài ra, các bộ, ngành cần kết hợp với các địa phương để có chính sách, bố trí nguồn lực hỗ trợ DNNVV tham gia Chương trình SMEdx; tập huấn, đào tạo cho các DNNVV về CĐS thông qua các chương trình hợp tác giữa địa phương với các doanh nghiệp công nghệ số; tiếp tục hướng dẫn, yêu cầu các DNNVV lựa chọn các nền tảng số phù hợp của chương trình SMEdx, bảo đảm tỷ lệ DNNVV sử dụng nền tảng số thuộc lĩnh vực phụ trách, trong đó có các nền tảng SMEdx đạt trên 50% vào năm 2025 theo Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Thứ hai, về phía DNNVV, việc đổi mới mô hình kinh doanh truyền thống sang các phương thức kinh doanh dựa trên các nền tảng số là nhu cầu cấp thiết. Khi tham gia vào quá trình này, doanh nghiệp cũng đối diện với không ít thách thức. Khả năng tiếp nhận cũng như nhận thức để nhận diện và giải quyết được những thách thức phải đối mặt khi thực hiện CĐS sẽ là vấn đề của mỗi doanh nghiệp. Để làm được điều này, DNNVV cần tìm hiểu và tham gia các chương trình tập huấn, hỗ trợ, tư vấn của các bộ, ngành, địa phương nhằm học hỏi, nắm bắt được những vấn đề cốt lõi của CĐS. Từ đó, các doanh nghiệp sẽ xác định được mình đang ở giai đoạn nào trong quá trình CĐS để có cơ sở xây dựng lộ trình, kế hoạch, giải pháp CĐS phù hợp, tạo nền tảng cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Chi phí về đầu tư công nghệ, hạ tầng, đội ngũ nhân sự hay chi phí rủi ro cũng là những thách thức lớn trong CĐS của các DNNVV. Vì vậy, để giảm tối đa chi phí và áp lực cho nhân sự, DNNVV nên chia nhỏ chi phí triển khai theo các giai đoạn; lãnh đạo doanh nghiệp phải là người đi đầu, không ủy thác dự án CĐS cho cấp dưới; xây dựng văn hóa số linh hoạt, đào tạo liên tục, truyền thông nội bộ./.

TS. Vũ Thị Huyền Trang - Trường Đại học Thương mại

(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 03, tháng 02/2024)


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bharadwaj, A., El Sawy, O. A., Pavlou, P. A., and Venkatraman, N. V. (2013), Digital business strategy: toward a next generation of insights, MIS quarterly, 37(2), 471-482.

2. Bộ Ngoại giao, Học viện Ngoại giao (2023), Tài liệu khóa học Developing Digital Economy Readiness”.

3. Bộ Thông tin và Truyền thông (2021), Cẩm nang CĐS, Nxb Thông tin và Truyền thông.

4. Bùi Huyền (2023), CĐS tại các DNNVV - Xu thế tất yếu và sự cần thiết, truy cập từ https://tapchitoaan.vn/chuyen-doi-so-tai-cac-doanh-nghiep-nho-va-vua-xu-the-tat-yeu-va-su-can-thiet7831.html.

5. Cục Phát triển doanh nghiệp (2022), Báo cáo thường niên CĐS doanh nghiệp 2022, truy cập từ https://digital.business.gov.vn/document/bao-cao-thuong-nien-chuyen-doi-so-2022-muc-do-san-sang-chuyen-doi-so-cua-doanh-nghiep-viet-nam/.

6. Cisco (2020), Asia Pacific SMB Digital Maturity Study.

7. Fitzgerald, M., Kruschwitz, N., Bonnet, D., and Welch, M. (2014), Embracing digital technology: A new strategic imperative, MIT sloan management review, 55(2).

8. Global Link Consulting (2024), Các chính sách miễn giảm thuế cho doanh nghiệp thành lập tại Singapore, truy cập từ https://globallinkconsulting.sg/vi/thanh-lap-cong-ty-tai-nuoc-ngoai/thanh-lap-cong-ty-tai-singapore/thue-ke-toan-tu-van-phap-ly-tai-singapore/cac-chinh-sach-ho-tro-doanh-nghiep-thanh-lap-tai-singapore-mien-giam-thue.

9. Minh Ngọc (2023), 62% DNNVV đã tiếp cận các nền tảng số Make in Vietnam, truy cập từ https://hanoimoi.vn/62-doanh-nghiep-nho-va-vua-da-tiep-can-cac-nen-tang-so-make-in-vietnam-14862.html.

10. Vũ Thanh Nguyên, Phạm Lan Anh (2023), CĐS quốc gia: Thực trạng và hàm ý chính sách cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 11, tháng 04/2023.

11. Westerman, G., Mitra, S., and Sambamurthy, V. (2011), Measuring IT performance and communicating value, MIS Quarterly Executive, 10(1).