Các quốc gia phát triển nền kinh tế sáng tạo thế nào?
HIỂU THẾ NÀO VỀ KINH TẾ SÁNG TẠO?
Sau hơn 36 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu sâu rộng trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và tăng trưởng kinh tế nói riêng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải đối diện với những rủi ro, thách thức liên quan đến mức độ bền vững của tăng trưởng. Tăng trưởng vẫn dựa đáng kể vào gia tăng nguồn lực đầu vào và các ngành thâm dụng lao động/tài nguyên, trong khi đó, đóng góp của các nhân tố gắn trực tiếp với cải thiện chất lượng, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh còn chưa tương xứng với kỳ vọng.
Tại Hội thảo tham vấn “Phát triển kinh tế sáng tạo: Xu hướng, kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị đối với Việt Nam” diễn ra sáng 12/3, do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp cùng Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) tổ chức, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM cho rằng, việc duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức cao là điều kiện bắt buộc để Việt Nam đạt các mục tiêu trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế trong tương lai của đất nước sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn hơn khi các đầu vào tăng trưởng truyền thống như: vốn, lao động phổ thông, đất đai, tài nguyên thiên nhiên đang dần đạt ngưỡng giới hạn. Vì vậy, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 đã nhấn mạnh sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số nhằm tạo đột phá về năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
Khái niệm kinh tế sáng tạo đã ra đời và liên tục điều chỉnh trong hơn ba thập kỷ qua. Với tư duy thúc đẩy nền kinh tế sáng tạo, mỗi nền kinh tế cũng có thể tận dụng khung chính sách hiện có trên các mô hình kinh tế khác. Các dịch vụ sáng tạo ở không ít nền kinh tế được đánh giá là có sức chống chịu và khả năng phục hồi tốt hơn trong thời kỳ đại dịch. Quan trọng hơn, tư duy về kinh tế sáng tạo giúp hoàn thiện chính sách để các ý tưởng sáng tạo có đủ điều kiện, chu trình từ hình thành, sản xuất, cung ứng, phân phối và kể cả xuất khẩu, từ đó mang lại nhiều giá trị gia tăng hơn cho nền kinh tế, lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp và thu nhập cao hơn cho người lao động.
Theo CIEM, nền kinh tế sáng tạo được định nghĩa là nền kinh tế hình thành dựa trên các chu trình lên ý tưởng, phát triển, sản xuất, phân phối và tiêu thụ (bao gồm cả xuất khẩu) các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ sáng tạo, gắn với thiết lập, tôn trọng và bảo vệ sở hữu trí tuệ. Định nghĩa này nhấn mạnh 2 yếu tố là: (i) Thương mại hóa sản phẩm hàng hóa và dịch vụ sáng tạo; (ii) Thiết lập, tôn trọng và bảo vệ sở hữu trí tuệ.
Trong thời gian qua, xuất khẩu hàng hóa sáng tạo toàn cầu đã tăng trưởng đáng kể do nhiều nước trên thế giới đang triển khai các biện pháp hỗ trợ công nghiệp văn hóa và sáng tạo. Có sự khác biệt giữa các nhóm hàng hóa sáng tạo được xuất khẩu giữa nhóm các nước đang phát triển và các nước phát triển. Các nước phát triển thống trị xuất khẩu xuất bản, nghệ thuật thị giác và nghe nhìn, trong khi các nước đang phát triển thống trị xuất khẩu thiết kế và thủ công mỹ nghệ .
Xuất khẩu hàng hóa sáng tạo toàn cầu năm 2020 |
Đối với dịch vụ sáng tạo, UNCTAD chia làm 6 nhóm: (1) Nghiên cứu và phát triển; (2) Phần mềm; (3) Nghe nhìn; (4) Thông tin; (5) Quảng cáo, nghiên cứu thị trường và kiến trúc; (6) Các dịch vụ văn hóa, giải trí và di sản.
Thực tế cho thấy, xuất khẩu các dịch vụ sáng tạo đã vượt xa xuất khẩu hàng hóa sáng tạo do sự gia tăng mạnh mẽ trong xuất khẩu phần mềm, dịch vụ nghiên cứu và phát triển, cũng như số hóa một số hàng hóa sáng tạo. Các nước phát triển có thế mạnh trong xuất khẩu dịch vụ sáng tạo hơn các nước đang phát triển, song khoảng cách giữa hai nhóm quốc gia này đang dần thu hẹp.
CÁC QUỐC GIA PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ SÁNG TẠO THẾ NÀO?
Chia sẻ kinh nghiệm phát triển kinh tế sáng tạo của một số nước trên thế giới, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Ban Nghiên cứu tổng hợp – CIEM cho biết, tại Trung Quốc, khái niệm công nghiệp sáng tạo lần đầu được áp dụng tại Thượng Hải 2004, thể hiện tầm nhìn của quốc gia trong việc chuyển đổi từ một nền kinh tế công nghiệp dựa trên xuất khẩu sang nền kinh tế sáng tạo có tính bền vững, có quyền sở hữu trí tuệ gốc và phát triển thương hiệu hàng đầu, nhằm thúc đẩy quyền lực mềm thông qua xuất khẩu văn hoá.
Trung Quốc cũng ban hành Chiến lược “Made in China 2025” tập trung vào việc phát triển các lĩnh vực công nghiệp có giá trị gia tăng và công nghệ cao để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao. Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 của Trung Quốc (2016-2020) đã xem kinh tế sáng tạo như một ngành công nghiệp mới nổi chiến lược.
Tại Hàn Quốc, kinh tế sáng tạo được quốc gia này đặt làm chương trình nghị sự, chính sách lớn trong năm 2013. Theo định nghĩa của Chính phủ Hàn Quốc, nền kinh tế sáng tạo là một chiến lược kinh tế mới, tạo ra các ngành công nghiệp và thị trường mới bằng cách tích hợp, điều chỉnh trí tưởng tượng và tính sáng tạo vào khoa học, công nghệ thông tin và truyền thông, tạo việc làm bền vững thông qua việc đẩy mạnh các ngành công nghiệp truyền thống. Một số ngành công nghiệp sáng tạo tại Hàn Quốc có mức xuất khẩu cao có thể kể đến như: trò chơi (2,9 tỷ USD năm 2014); làn sóng Hàn Quốc Hallyu (Hàn Lưu) thông qua điện ảnh và âm nhạc (Kpop)...
Ông Nguyễn Anh Dương chia sẻ kinh nghiệm phát triển kinh tế sáng tạo của một số nước trên thế giới |
Ở Hoa Kỳ, 4,01% tổng số doanh nghiệp và 2,04% lao động đang tham gia vào các lĩnh vực công nghiệp sáng tạo khác nhau. Hoạt động kinh tế văn hóa và nghệ thuật chiếm 4,4% GDP, tương đương 1,02 nghìn tỷ USD vào năm 2021. Để hỗ trợ những người lao động và doanh nghiệp trong ngành công nghiệp sáng tạo, năm 2022, Thượng viện và Hạ viện của Hoa Kỳ đã đưa ra Đạo luật Thúc đẩy lực lượng lao động kinh tế sáng tạo và nghệ thuật địa phương (PLACE). Theo đó, tăng nguồn lực liên bang và mở rộng lợi ích liên bang cho những người sử dụng tính sáng tạo và kỹ năng trong công việc; trao quyền cho những người lao động sáng tạo, giúp thúc đẩy tăng trưởng ở các doanh nghiệp mới và hiện có, đồng thời thúc đẩy xuất khẩu văn hóa Hoa Kỳ ra nước ngoài; thành lập hội đồng liên ngành để khuyến khích phát triển nền kinh tế sáng tạo.
Singapore đã ban hành các chiến lược thúc đẩy kinh tế sáng tạo theo hướng top-down với định hướng của Chính phủ và sự phối hợp của các cơ quan quản lý. Quốc gia này phát triển hệ thống đo lường kinh tế sáng tạo thông qua đẩy mạnh công tác thống kê, phục vụ hiệu quả cho công tác chỉ đạo của Chính phủ. Đồng thời, xây dựng kế hoạch tổng thể để phối hợp và triển khai các nhóm chính sách và chiến lược khác nhau, bao gồm: (i) Kế hoạch Thành phố Phục hưng; (ii) Kế hoạch Quốc gia Truyền thông 21; (iii) Kế hoạch Quốc gia Thiết kế.
MỘT SỐ HÀM Ý CHO VIỆT NAM
Theo ông Nguyễn Anh Dương, Việt Nam có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế sáng tạo nhờ dân số trẻ, hiểu biết về công nghệ; di sản văn hóa phong phú; quá trình số hóa diễn ra nhanh chóng; tăng cường hội nhập với kinh tế toàn cầu…
Năm 2020, Việt Nam đứng thứ 8 trên thế giới xét về giá trị hàng hóa xuất khẩu. Các ngành kinh tế sáng tạo ở Việt Nam gồm có: (i) Thủ công mỹ nghệ; (ii) Thời trang và thiết kế; (iii) Nghệ thuật ẩm thực; (iv) Nghệ thuật biểu diễn; (v) Nghệ thuật tạo hình; (vi) Phim & Truyền thông; (vii) Công nghệ thông tin và kỹ thuật phần mềm; (viii) Du lịch & Di sản văn hoá; (ix) Âm nhạc & Giải trí; (x) Xuất bản & Văn học; (xi) Sáng tạo nội dung số (blog, vlog, podcast và tạo nội dung trên mạng xã hội); (xii) Tiếp thị và quảng cáo số.
Tuy đã nhận thấy tiềm năng phát triển của kinh tế sáng tạo, nhưng chúng ta chưa có khái niệm cụ thể về kinh tế sáng tạo phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam. Các thảo luận gần đây chủ yếu mang tính chất sơ khởi, chưa có cơ sở chặt chẽ trên nền tảng nghiên cứu khoa học bài bản, chưa có các hàm ý chính sách đủ chặt chẽ, khả thi.
Khảo sát của CIEM tại một số địa phương trong thời gian qua cũng cho thấy cách hiểu khác nhau về kinh tế sáng tạo, thậm chí thiếu sự phân định rạch ròi với đổi mới sáng tạo. Do kinh tế sáng tạo còn tương đối mới, Việt Nam gặp phải tình trạng thiếu các dữ liệu cập nhật, thường xuyên và chi tiết để phân tích các nội dung liên quan.
Từ kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, ông Nguyễn Anh Dương cho rằng, để phát triển nền kinh tế sáng tạo, cần hoàn thiện các thể chế chính sách, pháp luật nhằm tạo khuôn khổ pháp lý phù hợp cho sự phát triển nền kinh tế sáng tạo. Cần có tư duy lồng ghép kinh tế sáng tạo trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế, chính sách xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Tạo cơ chế hỗ trợ (thuế, tài chính, mặt bằng, kết nối, liên kết ngành...) cho phát triển kinh tế sáng tạo. Thúc đẩy chuyển đổi số để hỗ trợ hiệu quả hơn cho kinh tế sáng tạo…/.
Bình luận