Luật Hợp tác xã (sửa đổi) sẽ loại bỏ các quy định gây trở ngại gia nhập thị trường
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Luật Hợp tác xã năm 2012 được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2012, có hiệu lực từ ngày 01/7/2013 (thay thế Luật Hợp tác xã năm 2003) đã thể chế hóa các chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể tiếp cận gần hơn với bản chất, giá trị nguyên tắc của hợp tác xã trên thế giới.
Sau 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012, đã bước đầu tác động tích cực đến tổ chức và hoạt động của các hợp tác xã. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn sau gần 10 năm triển khai thực hiện, Luật Hợp tác xã năm 2012 còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần được nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp hơn với thực tiễn.
Luật Hợp tác xã (sửa đổi) sẽ loại bỏ các quy định gây trở ngại gia nhập thị trường |
Mục tiêu xây dựng dự án Luật Hợp tác xã (sửa đổi) nhằm tạo hành lang pháp lý thông thoáng, loại bỏ các quy định gây trở ngại gia nhập thị trường, phát triển thành viên; bảo đảm và phát huy đặc trưng, nguyên tắc cơ bản của hợp tác xã; tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức kinh tế hợp tác phát triển năng động, hiệu quả, bền vững, thực sự là thành phần quan trọng trong nền kinh tế với nhiều mô hình liên kết, hợp tác trên cơ sở tôn trọng bản chất hợp tác xã, thu hút nhiều thành phần, đối tượng tham gia vào khu vực kinh tế tập thể, giúp nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống của các thành viên và góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, dự thảo Luật Hợp tác xã (sửa đổi) đã bám sát mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và cụ thể hóa 5 nhóm chính sách tại đề nghị xây dựng dự án Luật đã được thông qua như sau:
Một là, nhóm chính sách về hoàn thiện các quy định về bản chất hợp tác xã, phát triển thành viên hợp tác xã, bao gồm: Xây dựng nguyên tắc mở đối với thành viên tham gia hợp tác xã cho cả đối tượng là công dân dưới 18 tuổi, doanh nghiệp tư nhân; bổ sung và khuyến khích phát triển các thành viên liên kết của hợp tác xã để mở rộng các hoạt động hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh, hỗ trợ, góp vốn, góp sức lao động (bao gồm người hết tuổi lao động có thể đóng góp bằng kinh nghiệm, trí tuệ) đóng góp cho hợp tác xã phát triển; thành viên liên kết chỉ cần đáp ứng một trong các điều kiện về góp vốn, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, hoặc góp sức lao động cho hợp tác xã, không tham gia biểu quyết, quản lý, điều hành hợp tác xã; khuyến khích hợp tác xã quan tâm đến phát triển cộng đồng; nâng cao nguyên tắc minh bạch thông tin hợp tác xã thông qua ứng dụng công nghệ thông tin, đảm bảo thông tin cung cấp đến thành viên nhanh chóng, chính xác, bảo vệ lợi ích cho thành viên.
Hai là, nhóm chính sách về mở rộng phạm vi điều chỉnh và hoàn thiện các quy định về loại hình TCKTHT, tổ chức đại diện, bao gồm: Bổ sung đối tượng điều chỉnh của Luật gồm tổ hợp tác hoạt động lâu dài có đăng ký thành lập, Liên đoàn hợp tác xã; hoàn thiện các quy định để làm rõ vị trí và vai trò tổ chức Liên minh hợp tác xã Việt Nam phù hợp với bản chất, các quy định hiện hành và hội nhập với thế giới; hoàn thiện quy định phân loại hợp tác xã theo hướng phù hợp với công tác quản lý Nhà nước. Các nội dung này được cụ thể hóa tại các Chương về tổ hợp tác, liên đoàn hợp tác xã và tổ chức đại diện, liên minh hợp tác xã.
Ba là, nhóm chính sách về mở rộng thị trường, nâng cao khả năng huy động vốn, tạo động lực cho hợp tác xã phát triển, bao gồm: Sửa đổi quy định giao dịch của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với các đối tượng không phải thành viên theo hướng điều lệ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tự quyết định, sau khi đáp ứng nhu cầu của thành viên; bổ sung các quy định lợi nhuận thu được từ giao dịch bên ngoài được trích lập quỹ chung không chia và phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp giống như doanh nghiệp, giao dịch nội bộ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; tăng tỷ lệ vốn góp của thành viên theo thông lệ thế giới; bổ sung quy định cho phép thành viên giao dịch, chuyển nhượng vốn góp; bổ sung quy định cho phép hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã sử dụng quỹ chung không chia, nguồn vốn hình thành tài sản chung không chia tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, ngoại trừ quyền sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê; sửa đổi các quy định về phân phối thu nhập.
Bốn là, nhóm chính sách về hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác quản lý, điều hành hợp tác xã, bao gồm: Bổ sung một chương riêng về kiểm toán, trong đó quy định về kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập bảo đảm phù hợp tiêu chuẩn kiểm toán hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thế giới, pháp luật về kiểm toán ở nước ta; hoàn thiện các quy định về bộ máy, tổ chức của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cho phép hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có nhiều người đại diện theo pháp luật; hoàn thiện quy định về tổ chức bộ máy quản lý, điều hành, về trách nhiệm, điều kiện năng lực của Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên…
Năm là, nhóm chính sách về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế tập thể, bao gồm: Hoàn thiện các quy định theo hướng tạo điều kiện cho các TCKTHT gia nhập cũng như rút lui khỏi thị trường, tăng cường "hậu kiểm" và tạo sân chơi bình đẳng với doanh nghiệp; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số; hoàn thiện các quy định về chính sách hỗ trợ của Nhà nước tại một chương riêng theo hướng bổ sung nguyên tắc, tiêu chí thực hiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước nhằm phát huy bản chất hợp tác xã trên cơ sở báo cáo kiểm toán của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; thống nhất các quy định về nội dung chính sách hỗ trợ đang quy định dàn trải; bổ sung chính sách hỗ trợ của Nhà nước thúc đẩy tổ hợp tác phát triển lên hợp tác xã./.kinh tế
Bình luận