Thông qua việc phân tích, so sánh các số liệu từ nguồn số liệu của thống kê Việt Nam và thống kê Liên Hợp quốc (UN-COMTRADE), Tổng cục Thống kê đã có lý giải chính thức về chênh lệch số liệu xuất – nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc.

Tổng cục Thống kê khẳng định, chênh lệch số liệu thống kê xuất - nhập khẩu hàng hóa giữa Trung Quốc và các đối tác là vấn đề phổ biến trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập ngày càng sâu rộng.

Số liệu thống kê xuất – nhập khẩu của Việt Nam và Trung Quốc cũng có sự chênh lệch, năm 2014 ở mức khá cao (Bảng).

Cụ thể, số liệu xuất khẩu của Việt Nam năm 2014 thấp hơn 5 tỷ USD so với nhập khẩu của Trung Quốc. So sánh số liệu 2 nước theo danh mục HS cho thấy: chênh lệch thể hiện chủ yếu ở nhóm hàng hóa thuộc chương 85 “Máy móc, thiết bị điện và các bộ phận của chúng” với 5,5 tỷ USD trong đó tập trung lớn nhất vào nhóm hàng điện tử, điện thoại là nhóm hàng Việt Nam gia công, lắp ráp là chủ yếu.

Nguyên nhân, theo Tổng cục Thống kê là do hàng Việt Nam sau khi sản xuất được chuyển đến một nước thứ 3 và Trung Quốc nhập khẩu các hàng hóa này từ nước thứ ba với xuất xứ Việt Nam.

Với nhóm hàng khoáng sản (chương 25, 26 và 27), chênh lệch tổng số không nhiều, nhưng riêng chương 26 (quặng, xỉ và tro) chênh lệch khoảng gần 400 triệu.

Về nhập khẩu, nhiều nhóm hàng HS có chênh lệch, trong đó lớn nhất là các nhóm hàng có liên quan đến cả tiêu dùng và sản xuất, gia công, như: dệt may, giày dép (bao gồm: quần áo, giày dép thành phẩm, vải may mặc, bông, xơ sợi dệt, nguyên phụ liệu dệt may, da giày), máy móc, thiết bị, xe cộ... với chênh lệch khoảng 12,5 tỷ USD chiếm trên 60%.

Một số nhóm hàng tiêu dùng nhập khẩu chênh khá lớn gồm: rau quả các loại (1,6 tỷ USD), giường tủ bàn ghế, đồ gốm sứ, đồ dùng gia đình bằng kim loại...

Từ những so sánh, phân tích trên và thực tế thị trường Việt Nam, có thể lý giải chênh lệch số liệu nhập khẩu của Việt Nam và xuất khẩu củaTrung Quốc là do một số nguyên nhân sau:

Một là, sự khác biệt phương pháp thống kê nước đối tác. Bởi, xuất khẩu thống kê theo “nước cuối cùng hàng đến”, nên trường hợp hàng Trung Quốc - bao gồm hàng xuất xứ Trung Quốc, hoặc xuất xứ nước khác – đưa sang Việt Nam được Trung Quốc thống kê là xuất cho Việt Nam trong khi Việt Nam chỉ thống kê những hàng hóa có xuất xứ Trung Quốc, các hàng hóa có xuất xứ nước khác được thống kê là nhập khẩu từ nước khác.

Hai là, do phạm vi thống kê: một số luồng hàng từ Trung Quốc vào Việt Nam, nhưng không thuộc phạm vi thống kê. Cụ thể là: hàng tạm nhập tái xuất, quá cảnh hoặc chuyển khẩu từ Trung Quốc, Hồng Kông.

Do lợi thế về khoảng cách gần giữa Việt Nam - Hồng Kông, luồng hàng giữa Trung Quốc và Hồng Kong có thể được vận chuyển qua Việt Nam với thủ tục về tạm nhập, tái xuất, quá cảnh hoặc chuyển khẩu. Việt Nam không thống kê, nhưng Trung Quốc và Hồng Kông thống kê là xuất khẩu với nước hàng đến là Việt Nam.

Ba là, do xác định trị giá thống kê khác nhau. Hai nước cùng áp dụng nguyên tắc xác định trị giá hải quan, nhưng với một số trường hợp, Hải quan Trung Quốc và Việt Nam có thể xác định trị giá lô hàng cao thấp khác nhau;

Bốn là, hoạt động nhập khẩu lậu vào Việt Nam. Cơ quan thống kê trung ương cũng cho biết, cũn như hầu hết các nước khác, hàng nhập khẩu lậu không nằm trong phạm vi thống kê của Việt Nam. Với biên giới đường bộ dài, khó kiểm soát, hàng hóa được nhập lậu từ Trung Quốc vào Việt Nam qua đường tiểu ngạch, cư dân biên giới như rau quả, quần áo và trang phục, giày dép, đồ dùng gia đình....

Nếu phía Trung Quốc kiểm soát tốt hoạt động này bên kia biên giới, thì hàng hóa được tính trong xuất khẩu của Trung Quốc, song lại không nằm trong thống kê nhập khẩu của Việt Nam.

“Có một vài nước thực hiện ước tính con số này trong số nhiều “hoạt động kinh tế ngầm””, Tổng cục Thống kê cho hay.

Năm là, do gian lận thương mại: nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi nhập khẩu hàng hóa, đặc biệt với các hàng hóa chịu thuế, đã thông đồng với doanh nghiệp đối tác khai giá thấp để hưởng mức thuế thấp.

Ngược lại các doanh nghiệp Trung Quốc cũng có thể khai trị giá xuất khẩu cao để hưởng thuế khấu trừ cao.

Sáu là, sự lẫn lộn giữa hàng hóa và dịch vụ xuất – nhập khẩu trong thống kê. Theo đó, một số sản phẩm có thể được Việt Nam tính vào dịch vụ, nhưng Trung Quốc coi là hàng hóa, đặc biệt là các sản phẩm có liên quan đến công nghệ thông tin như phần mềm, trò chơi điện tử vốn được lưu giữ trên băng, đĩa mềm.

Trong nhiều trường hợp ranh giới phân biệt không rõ ràng nếu người khai hải quan không mô tả rõ.

Như vậy, để lượng hóa được các nguyên nhân, kinh nghiệm các nước cho thấy, cần có sự phối hợp rà soát, phân tích số liệu một cách chi tiết giữa hai bên.

Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN, Việt Nam cũng đã tiến hành rà soát song phương số liệu với Malaixia và Indonesia tháng 09/2012.

“Vì Trung Quốc là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, tuyến biên giới đường bộ dài, nên cần đề xuất thành lập nhóm công tác do hải quan hai nước phối hợp, có sự tham gia của các ngành liên quan để thực hiện rà soát số liệu, chính sách thương mại… để hiểu rõ hơn về nội hàm số liệu thống kê và sử dụng cho các mục tiêu lập chính sách, đầu tư, nghiên cứu, đồng thời có các biện pháp hiệu quả trong việc quản lý các luồng hàng hóa có liên quan đến Trung Quốc, kiểm soát buôn lậu, gian lận thương mại và các chính sách có liên quan khác”, Tổng cục Thống kê đề xuất.

Bảng: Chênh lệch số liệu giữa Việt Nam với Trung Quốc

Đơn vị tính: tỷ USD

Việt Nam

Trung Quốc

Chênh lệch trị giá

% chênh lệch

Chiều hàng đi: Việt Nam xuất khẩu -Trung Quốc nhập khẩu

2010

7.0

7.7

-0.7

-10.0

2011

11.6

11.1

0.5

4.3

2012

12.8

16.2

-3.4

-26.6

2013

13.2

16.9

-3.7

-28.0

2014

14.9

19.9

-5.0

-33.6

Chiều hàng đến: Việt Nam nhập khẩu -Trung Quốc xuất khẩu

2010

20.2

23.1

-2.9

-14.4

2011

24.9

29.1

-4.2

-16.9

2012

29.0

34.2

-5.2

-17.8

2013

36.9

48.6

-11.7

-31.7

2014

43.7

63.7

-20.0

-45.8

Nguồn: TCTK và UN-COMTRADE