ThS. Trần Thị Huyền Anh

Trường Đại học Cảnh sát nhân dân

Tóm tắt

Việc phòng, chống tội phạm và những vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động “tín dụng đen” (trong đó, tội phạm nguồn là tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự) đã được cả hệ thống chính trị và toàn xã hội quan tâm, quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp để kiềm chế, đẩy lùi; tuy nhiên, công tác này còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt trong việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Trên cơ sở thực trạng nói trên, bài viết đề xuất một số nội dung cần hoàn thiện trong các văn bản pháp luật nhằm phòng, chống hiệu quả với loại tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến “tín dụng đen” nói chung, “tín dụng đen” hoạt động trực tuyến nói riêng trong thời gian tới.

Từ khóa: cho vay lãi nặng, hoạt động trực tuyến, pháp lý, “tín dụng đen”, tội phạm

Summary

The prevention and combat of "black credit" crimes and violations (in which the primary crime is the crime of lending at high interest rates in civil transactions) has received attention from both the political system and the entire society. A large number of solutions have been drastically implemented to prevent and push back against black credit. However, there are many difficulties in the prevention of black credit, especially the application of relevant legal documents. Therefore, this paper proposes a number of contents that need to be improved in legal documents to effectively prevent and combat black credit crimes and violations in general and online black credit in particular in the near future.

Keywords: high interest loans, online activities, legal, black credit, crime

GIỚI THIỆU

Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, nhu cầu tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh ngày càng tăng cao, nên hoạt động tín dụng được phổ biến mở rộng nhằm giải quyết nhu cầu vốn cho cá nhân hoặc doanh nghiệp. Tuy nhiên, các cá nhân, tổ chức “tín dụng đen” lợi dụng vấn đề trên để tồn tại hoạt động, gây nhiều hệ lụy đến kinh tế - xã hội và an ninh, trật tự. Do đó, việc hoàn thiện cơ sở pháp lý góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm hoạt động “tín dụng đen” nói chung, hoạt động “tín dụng đen” trực tuyến nói riêng là vấn đề cấp thiết được đặt ra.

TÌNH HÌNH TỘI PHẠM HOẠT ĐỘNG “TÍN DỤNG ĐEN”

Hiện nay, chưa có khái niệm thống nhất về “tín dụng đen”. Theo cách hiểu thông thường nhất, “tín dụng đen” là hoạt động tài chính bất hợp pháp với hình thức cho vay, đi vay hoặc huy động vốn với lãi suất vượt quá mức lãi suất pháp luật quy định, được thực hiện bởi các cá nhân, nhóm người hoặc tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính, gắn với các hoạt động trái pháp luật, như: cho vay lãi nặng; tổ chức thu hồi nợ trái pháp luật; lợi dụng giao dịch trong dân sự vay, mượn, huy động vốn, góp vốn để lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; sử dụng tiền vay vào mục đích trái pháp luật...

Tình hình tội phạm hoạt động “tín dụng đen” bằng thủ đoạn lợi dụng công nghệ cao, cho vay lãi nặng qua ứng dụng trên thiết bị thông minh (các App), thông qua đối tượng từ nhiều địa phương, trong đó có cả người nước ngoài câu kết với nhau để tổ chức hoạt động cho vay và đòi nợ, diễn ra ngày càng mạnh trong thời gian gần đây. Nhiều đối tượng còn “núp bóng” thành lập các công ty dịch vụ để hoạt động cho vay tiền với lãi suất lên đến hàng nghìn phần trăm mỗi năm. Các ứng dụng, như: “Vaytocdo”, “Moreloan”, “VD online”…, hoặc các trang mạng xã hội (Facebook) do các đối tượng lập ra, quảng cáo, lôi kéo cho vay trực tuyến với lãi suất lên đến hàng nghìn phần trăm mỗi năm. Để đảm bảo việc thu hồi nợ đối với những người chậm trả hoặc tìm cách trốn nợ, ngoài thủ đoạn “khủng bố” qua tin nhắn và mạng xã hội, các đối tượng còn cho người tìm kiếm con nợ, dùng vũ lực gây sức ép để buộc con nợ phải trả nợ.

Ngày 25/4/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 12/CT-TTg về tăng cường phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động “tín dụng đen”. Bộ Công an cũng đã xây dựng Kế hoạch số 240/KH-BCA-C02, ngày 27/6/2019 để triển khai thực hiện Chỉ thị số 12/CT-TTg của Thủ tướng. Ngày 13/9/2019, Tòa án nhân dân tối cao có Công văn số 212/TANDTC-PC thông báo kết quả phiên họp trực tuyến ngày 29/7/2019, trong đó có một số nội dung hướng dẫn về mặt pháp lý khi giải quyết các vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự1]. Tuy nhiên, tình hình tội phạm hoạt động “tín dụng đen” vẫn diễn biến phức tạp, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, đối tượng tìm mọi cách để né tránh bị xử lý theo pháp luật. Các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm hoạt động “tín dụng đen”, nhất là đối với các đối tượng lợi dụng công nghệ cao, dùng thủ đoạn cho vay trực tuyến để hoạt động.

NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC VỀ MẶT PHÁP LÝ

Từ thực tiễn công tác phòng, chống tội phạm “tín dụng đen” bằng thủ đoạn lợi dụng công nghệ cao, trong thời gian qua, các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là lực lượng Công an còn gặp phải những khó khăn, vướng mắc về mặt pháp lý sau đây:

Thứ nhất, việc xác định dấu hiệu “cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” và những yếu tố cấu thành tội phạm trong hành vi cho vay dưới hình thức trực tuyến

Theo quy định tại Điều 201, Bộ luật Hình sự năm 2015 cấu thành tội phạm cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự về mặt khách quan phải thỏa mãn các điều kiện: (1) Cho người khác vay với mức lãi suất gấp 5 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự; (2) Phải thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Để thỏa mãn điều kiện (1), người phạm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự phải cho người khác vay với mức lãi suất từ 100%/năm trở lên[2]. Cùng với đó, điều kiện (2) trong mặt khách quan của tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là số tiền thu lợi bất chính có được từ hành vi này phải từ 30.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính chưa đến 30.000.000 đồng, nhưng trước đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cho vay lãi nặng hoặc đã bị kết án về tội cho vay lãi nặng, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Vậy đối với trường hợp đối tượng hoạt động “tín dụng đen” bằng thủ đoạn “núp bóng” thành lập doanh nghiệp, thuê người làm giám đốc và thực hiện hành vi cho vay trực tuyến, thì có xem hành vi này là cho vay lấy lãi trong giao dịch dân sự không? Phần “phí dịch vụ” mà các đối tượng thu của người vay có xem là lãi suất không? Số tiền lãi, “phí” nếu tính theo từng người vay có thể ít, nhưng nếu cộng dồn của tất cả những người vay thì rất nhiều (lên đến nhiều tỷ đồng), thì cách tính nguồn thu lợi bất chính thế nào?... Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao[3], nếu hành vi cho vay lãi nặng là liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, thì mới cộng dồn số tiền thu lợi bất chính, nhưng các đối tượng cho vay trực tuyến cho nhiều người vay, nhiều khoản vay khác nhau qua ứng dụng (App), thì có xác định nguồn thu lợi bất chính là tổng số tiền các đối tượng thu lợi từ tất cả những người đã vay, tất cả các khoản cho vay hay không?

Thứ hai, về quá trình tố tụng trong điều tra, xử lý “tín dụng đen” hoạt động trực tuyến

“Tín dụng đen” hoạt động trực tuyến có liên quan đến đối tượng, hoạt động phạm tội có liên quan đến nhiều khâu, nhiều hành vi, nhiều địa bàn khác nhau. Đặc biệt là hành vi cho vay, thu nợ, đòi nợ diễn ra trên không gian mạng, không xác định cụ thể được thời gian, địa điểm, người thực hiện cụ thể... Trong quá trình điều tra, chứng minh, các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu thập chứng cứ để làm rõ toàn bộ “tận gốc rễ” hành vi phạm tội của các đối tượng, nhất là đối tượng chủ mưu, cầm đầu, thực chất thu lợi từ hoạt động cho vay trực tuyến.

Về lý thuyết, các cơ quan tiến hành tố tụng nếu chứng minh được các đối tượng cố ý cùng thực hiện tội phạm, thì từng đối tượng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với vai trò của mình. Tuy nhiên, với đặc điểm của tội phạm “tín dụng đen” hoạt động trực tuyến như đã phân tích ở trên, thì việc tiến hành tố tụng, thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm và người phạm tội nếu theo phân công, phân cấp thẩm quyền như hiện nay sẽ gặp những khó khăn như: (1) Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam rất hạn chế dẫn tới hoạt động điều tra như “bắt cóc bỏ đệm”[4]; (2) Việc phân công, phân cấp thẩm quyền điều tra còn nhiều bất cập dẫn đến hạn chế khả năng phối hợp và tiến hành các biện pháp nghiệp vụ chuyên sâu của cơ quan điều tra.

Theo Thông tư số 56/2017/TT-BCA, ngày 16/11/2017 của Bộ Công an (Thông tư số 26/2018/TT-BCA, ngày 10/8/2018 của Bộ Công an sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 56/2017/TT-BCA) quy định về phân công Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, thẩm quyền điều tra hình sự trong công an nhân dân và các đội điều tra thuộc cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp huyện, thì tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự thuộc thẩm quyền điều tra của lực lượng cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp huyện. Trong thực tế, quá trình điều tra tội phạm “tín dụng đen” hoạt động trực tuyến diễn ra trên địa bàn rất rộng (trong đó có cả không gian mạng), liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều hành vi. Trong các loại tội danh của “tín dụng đen”, nhiều tội thuộc chức năng phòng ngừa và thẩm quyền điều tra của lực lượng cảnh sát hình sự, tuy nhiên, tội phạm “nguồn” là tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, thì thẩm quyền điều tra lại là của lực lượng cảnh sát kinh tế. Như vậy, nếu đối tượng phạm tội “tín dụng đen” hoạt động trực tuyến, từ khâu phòng ngừa, phát hiện đến điều tra, xử lý sẽ khó liền mạch, thiếu tính chuyên sâu, nhất là những khó khăn trong việc chuyển hóa tài liệu trinh sát thành chứng cứ và lựa chọn chiến thuật đấu tranh của các lực lượng nghiệp vụ.

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG “TÍN DỤNG ĐEN” HOẠT ĐỘNG TRỰC TUYẾN

Để tăng cường, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm hoạt động “tín dụng đen” nói chung, hoạt động “tín dụng đen” trực tuyến nói riêng, trong thời gian tới đòi hỏi cần phải hoàn thiện cơ sở pháp lý một cách đầy đủ, đồng bộ hơn nữa. Bài viết đề xuất, kiến nghị thêm[5] một số nội dung sau:

Một là, Bộ Công an kiến nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành nghị quyết hoặc Bộ Công an phối hợp với các cơ quan tư pháp Trung ương xây dựng thông tư liên tịch hướng dẫn xử lý hành vi cho vay tiền trực tuyến (hoặc các hành vi tương tự, như: “hỗ trợ tài chính”, “mượn tài khoản”...) là hành vi vay mượn trong giao dịch dân sự; “phí dịch vụ” là lãi suất; nguồn thu lợi bất chính của các đối tượng cho vay lãi nặng được tính cộng dồn của tất cả những người vay, tất cả hình thức cho vay (dù sử dụng nhiều App, nhiều hình thức cho vay khác nhau do cùng một nhóm đối tượng điều hành). Nếu hành vi, lãi suất, nguồn thu lợi bất chính đủ yếu tố cấu thành tội phạm cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 201, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), thì các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Hai là, Bộ Công an kiến nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành nghị quyết hoặc phối hợp với các cơ quan tư pháp Trung ương xây dựng thông tư liên tịch hướng dẫn cách xác định lãi suất và nguồn thu lợi bất chính trong cấu thành tội phạm cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Theo tác giả, thu lợi bất chính tức là nguồn thu đó không chính đáng, trái quy định của pháp luật. Do vậy, tác giả đề xuất hướng dẫn những vấn đề trên theo hướng: (1) Việc xác định lãi suất, nếu đối tượng cho vay theo giờ trong ngày hoặc theo ngày, thì sẽ nhân với số ngày trong năm (365 ngày hoặc 366 ngày) để xác định lãi suất trong một năm; nếu đối tượng cho vay theo tuần, thì sẽ nhân với 52 tuần để xác định lãi suất trong một năm; nếu đối tượng cho vay theo tháng, thì nhân với 12 tháng để xác định lãi suất trong một năm; (2) Nếu xác định được đối tượng cho nhiều người vay và nhiều khoản vay khác nhau, trong đó có người, có khoản vay với lãi suất trên 100%/năm (dấu hiệu 1), thì số tiền thu lợi bất chính (dấu hiệu 2) để xác định trách nhiệm hình sự sẽ cộng dồn của tất các khoản cho vay (thực tế đã thu lãi suất) có lãi suất trên 20%/năm.

Ba là, theo quy định hiện hành của Bộ luật Tố tụng hình sự[6] và của Bộ Công an[7], tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, kể cả trong trường hợp do đối tượng người nước ngoài thực hiện và đối tượng đang có mặt tại Việt Nam, thì thẩm quyền điều tra là của lực lượng cảnh sát kinh tế thuộc cơ quan cảnh sát điều tra cấp huyện. Thực tế, tội phạm “tín dụng đen” nói chung, “tín dụng đen” hoạt động trực tuyến nói riêng không chỉ có hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, mà còn làm phát sinh các loại tội phạm khá, như: giết người, cưỡng đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản... Hơn nữa, các đối tượng phạm tội “tín dụng đen” hoạt động trực tuyến có phạm vi địa bàn và “con nợ” rất rộng. Do đó, đề xuất Cục Pháp chế và cải cách hành chính tư pháp (Bộ Công an) phối hợp với Văn phòng Cơ quan cảnh sát điều tra (Bộ Công an) tham mưu cho lãnh đạo Bộ điều chỉnh quy định về phân công, phân cấp, quan hệ phối hợp lực lượng trong phòng ngừa, phát hiện, điều tra tội phạm “tín dụng đen” hoạt động trực tuyến theo hướng giao trách nhiệm, thẩm quyền chính cho cấp tỉnh (Phòng Cảnh sát hình sự chủ công) hoặc cấp Bộ (Cục Cảnh sát hình sự chủ công) tùy theo quy mô, tính chất, thủ đoạn hoạt động của đối tượng.

Bốn là, Bộ Công an có báo cáo, tham mưu cho Chính phủ kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Cụ thể là: (1) Kiến nghị chỉnh sửa Điều 119, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng quy định biện pháp ngăn chặn tạm giam có thể áp dụng đối với tất cả bị can, bị cáo nếu xét thấy cần thiết để phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử (không phân biệt bị khởi tố về loại tội phạm gì), trừ trường hợp quy định tại Điều 419, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi); (2) Kiến nghị chỉnh sửa, bổ sung Khoản 2, Điều 224, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng quy định thêm những trường hợp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, bao gồm: tội phạm có tổ chức, tội phạm lợi dụng công nghệ cao, mạng máy tính, mạng viễn thông để hoạt động, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thủ tướng Chính phủ (2019), Chỉ thị số 12/CT-TTg, ngày 25/4/2019 về tăng cường phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động "tín dụng đen”.

2. Thủ tướng Chính phủ (2023), Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 27/5/2023 về tăng cường phòng ngừa, đấu tranh tội phạm, vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động tổ chức đánh bạc và đánh bạc.

3. Tùng Lâm (2019), Tăng cường công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm liên quan đến hoạt động tín dụng đen, truy cập từ https://bocongan.gov.vn/tin-tuc-su-kien/tang-cuong-cong-tac-phong-ngua-dau-tranh-voi-toi-pham-lien-quan-den-hoat-dong-tin-dung-den-d17-t25936.html.


[1] Theo Hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là số tiền lãi thu được sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất theo quy định của Bộ luật Dân sự. Tức là, tiền thu lợi bất chính chỉ xác định trong phần lãi cao hơn 20% mà đối tượng đã thu được từ người vay. Tòa án nhân dân tối cao cũng hướng dẫn khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự trong vụ án là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được của tất cả những người vay nếu hành vi cho vay lãi nặng được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian. Về tư cách tham gia tố tụng của người vay tiền (con nợ), Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn xác định họ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Điều này có nghĩa là, trong vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, người vay tiền không phải là người bị hại, nếu vì nợ tiền mà họ bị xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản hoặc các lợi ích khác thì họ có thể trở thành người bị hại trong vụ án tương ứng với hành vi đối tượng đã gây ra cho họ.

[2] Theo quy định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trong giao dịch dân sự, lãi suất trong hợp đồng vay sẽ do các bên thỏa thuận, trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất, thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp pháp luật liên quan có quy định khác.

[3] Công văn số 212/TANDTC-PC, ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao.

[4] Theo quy định tại Điều 119, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một số trường hợp có thể gây cản trở quá trình điều tra. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 201, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), thì nếu thuộc trường hợp người có hành vi phạm tội thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng (Khoản 1, Điều 201, Bộ luật Hình sự), thì mức cao nhất của khung hình phạt là cải tạo không giam giữ đến 3 năm. Do đó, nếu chưa đủ chứng cứ chứng minh nguồn thu lợi bất chính là trên 100.000.000 đồng, thì Cơ quan điều tra không được ra lệnh, quyết định tạm giam bị can.

[5] Trong thời gian qua, đã có rất nhiều các nhà khoa học, cán bộ đề xuất việc hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm hoạt động “tín dụng đen”. Trong bài viết này, chỉ nêu thêm những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật có liên quan đến phòng, chống tội phạm hoạt động “tín dụng đen” do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam.

[6] Khoản 2, Điều 268, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[7] Thông tư số 56/2017/TT-BCA, ngày 16/11/2017 của Bộ Công an (Thông tư số 26/2018/TT-BCA, ngày 10/8/2018 của Bộ Công an sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 56/2017/TT-BCA).

Ngày nhận bài: 24/4/2024; Ngày phản biện: 15/5/2024; Ngày duyệt đăng: 30/5/2024