Giới thiệu Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 3 (829)

Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng, nợ xấu gia tăng nhanh chóng đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc khủng hoảng ngân hàng. Điều này càng được khẳng định rõ kể từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong năm 2007-2008, khi mức độ nợ xấu tăng lên đáng kể giữa các quốc gia. Sau năm 2007-2008, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải đối mặt với sự gia tăng nhanh chóng của nợ xấu, nhưng sự gia tăng này có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm quốc gia khác nhau và giữa các quốc gia trong cùng một nhóm. Sự chênh lệch lớn giữa các quốc gia đặt ra câu hỏi về nguyên nhân gây ra sự khác biệt này và do đó đâu là yếu tố quyết định tỷ lệ nợ xấu. Trong bài viết, “Các nhân tố tác động đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay”, tác giả Nguyễn Thanh Huyền sử dụng dữ liệu bảng tại 27 ngân hàng thương mại trong giai đoạn 2016-2021, nhằm phân tích các nhân tố tác động đến nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, từ đó đưa ra một số hàm ý chính sách.

Trong giai đoạn suy thoái kinh tế hiện nay, môi trường kinh doanh đã ngày càng trở nên khó khăn hơn đối với các doanh nghiệp, khiến làn sóng doanh nghiệp trong nước lâm vào kiệt quệ tài chính dẫn đến phá sản diễn ra mạnh, trong đó, có các công ty cổ phần niêm yết hoạt động trong ngành khai thác khoáng sản. Chính vì vậy, việc dự báo kiệt quệ tài chính đã trở thành nhu cầu cần thiết, bởi giúp các nhà quản trị tại các doanh nghiệp khai khoáng có các biện pháp ứng phó kịp thời, nhằm giảm thiểu nguy cơ kiệt quệ tài chính, đồng thời giúp cho các nhà đầu tư, ngân hàng và các đối tác kinh doanh khác có thể lựa chọn những doanh nghiệp tốt để hợp tác, từ đó có thể giảm thiểu rủi ro và tổn thất cho nền kinh tế. Qua bài viết Sử dụng hồi quy Logistic trong dự báo khả năng kiệt quệ tài chính cho các doanh nghiệp niêm yết ngành khai khoáng”, tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh sử dụng hồi quy Logistic để dự báo kiệt quệ tài chính cho các doanh nghiệp niêm yết ngành khai khoáng với bộ số liệu trong mẫu nghiên cứu của giai đoạn 2012-2021, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị.

Có thể thấy rằng, sự phát triển của các doanh nghiệp FDI có ảnh hưởng lớn tới tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Thực tế, các doanh nghiệp FDI có nhu cầu lớn sử dụng các dịch vụ logistics, tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ của Việt Nam chưa đáp ứng được. Đa số doanh nghiệp logsitics nội địa đang hoạt động có quy mô nhỏ, nên năng lực tài chính, trình độ quản lý hạn chế, chủ yếu vẫn dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ logistics 2PL, mà cụ thể là dịch vụ vận tải hàng hóa. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam thường tìm kiếm các gói dịch vụ logistics tích hợp (phổ biến là 3PL) không đơn thuần là vận chuyển hàng hóa, mà còn đi kèm với nhiều dịch vụ giá trị gia tăng khác, như: thủ tục hải quan, lưu kho, đóng gói và phân phối sản phẩm. Ngoài yếu tố thuộc về các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics, những yếu tố khách quan bên ngoài, như: cơ sở hạ tầng, khung pháp lý, nguồn nhân lực, công nghệ… cũng cản trở sự phát triển của logistics Việt Nam. Qua bài viết Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ logistics cho các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam”, tác giả Vũ Quỳnh Vân đưa ra bằng chứng thực nghiệm về các nhân tố tác động đến phát triển dịch vụ cho doanh nghiệp FDI tại Việt Nam.

Đa dạng sinh kế là một trong những chiến lược quan trọng giúp giảm thiểu biến động thu nhập của các hộ gia đình nông thôn trong bối cảnh hiện nay. Vì thế, đa dạng sinh kế đã và đang là vấn đề nghiên cứu thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong nước và trên thế giới trong các năm qua. Các nghiên cứu dù được thực hiện ở các quốc gia khác nhau, với những đặc điểm kinh tế - xã hội có nhiều điểm khác biệt, nhưng kết luận đều cho thấy tác động tích cực của đa dạng sinh kế đến cuộc sống của người dân. Bài viết “Tác động của đa dạng sinh kế đến thu nhập hộ gia đình ở Việt Nam: Kết quả từ mô hình hồi quy với biến công cụ”, của tác giả Đàm Thị Thu Trang đánh giá tác động của các yếu tố đến đa dạng sinh kế và ảnh hưởng của nó đến thu nhập hộ gia đình dựa trên bộ điều tra Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2020.

Để đánh giá hiệu quả tài chính và sự tăng trưởng của các doanh nghiệp ngành thực phẩm - đồ uống, các chuyên gia sẽ xem xét sự tác động của các yếu tố vi mô và vĩ mô, cũng như phân tích các quyết định tài chính của doanh nghiệp. Đối với nhà quản trị tài chính, quyết định chi phí sử dụng vốn là một trong những quyết định tài chính cơ bản, trả lời cho câu hỏi doanh nghiệp nên huy động vốn từ nguồn nào, nên đi vay hay phát hành cổ phiếu, chi phí cho việc sử dụng vốn ra sao, rủi ro đối với các quyết định huy động vốn là gì và đâu là các yếu tố tác động đến chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp? Thông qua bài viết Tác động của công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp niêm yết ngành thực phẩm và đồ uống”, nhóm tác giả Nguyễn Thị Liên Hương, Ngô Thị Ngọc khuyến nghị một số hàm ý quản trị nhằm giảm thiểu chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.

Trong quá trình vận hành, mỗi doanh nghiệp đều hướng tới mục tiêu đạt hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh. Để đạt được mục tiêu này, các nhà quản lý cần quan tâm những yếu tố nào có ảnh hưởng tích cực, những yếu tố nào có ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh, từ đó thiết lập các chiến lược phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp. Bài viết “Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghệ thông tin”, của nhóm tác giả Hoàng Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Tuyết Mai xác định ảnh hưởng của các nhân tố tới hiệu quả hoạt động kinh doanh dựa trên số liệu thu thập được từ báo cáo tài chính của 17 doanh nghiệp ngành công nghệ thông tin được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2017-2021.

Cùng với đó, trong số kỳ này, Tạp chí còn có nhiều bài viết của các chuyên gia, nhà khoa học phân tích các vấn đề nổi bật trong thời gian qua sẽ đem đến cho bạn đọc thông tin tham khảo hữu ích./.

MỤC LỤC

Nguyễn Thanh Huyền: Các nhân tố tác động đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay

Nguyễn Thị Kim Oanh: Sử dụng hồi quy Logistic trong dự báo khả năng kiệt quệ tài chính cho các doanh nghiệp niêm yết ngành khai khoáng

Vũ Quỳnh Vân: Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ logistics cho các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam

Đàm Thị Thu Trang: Tác động của đa dạng sinh kế đến thu nhập hộ gia đình ở Việt Nam: Kết quả từ mô hình hồi quy với biến công cụ

Nguyễn Thị Liên Hương, Ngô Thị Ngọc: Tác động của công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp niêm yết ngành thực phẩm và đồ uống

Hoàng Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Tuyết Mai: Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghệ thông tin

Nguyễn Thị Hương Giang: Ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với quản trị chuỗi cung ứng dịch vụ công nghệ thông tin

Phạm Ngọc Duy: Ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến sự phát triển của doanh nghiệp

Trương Đình Hải Thụy, Nguyễn Thị Trần Lộc, Phạm Ngọc Trình: Phát triển mô hình kinh doanh linh hoạt

Nguyễn La Soa: Áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế ở các doanh nghiệp Việt Nam - Lý luận và thực tiễn

Nguyễn Phương Nam: Các yếu tố tác động đến ý định sử dụng ngân hàng điện tử của người tiêu dùng trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

Dương Trung Kiên: Nghiên cứu về cơ sở vật chất, trang thiết bị của các trạm y tế xã/phường giai đoạn 2019-2025

Lê Thị Thanh Dung: Quản trị trải nghiệm khách hàng và sự hài lòng của khách hàng với dịch vụ thẩm mỹ tại các cơ sở thẩm mỹ địa bàn Hà Nội

Nguyễn Thị Ngọc Phương: Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, năng lực tâm lý và sự gắn kết với tổ chức của người lao động trong các doanh nghiệp thủy sản vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Châu Thị Lệ Duyên, Phước Minh Hiệp, Nguyễn Thanh Liêm, Trần Giải Phóng: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua lại bảo hiểm y tế hộ gia đình của người dân trên địa bàn TP. Cần Thơ

Phạm Quang Huy, Đỗ Thị Thúy An: Tác động của yếu tố vi mô đến sự hữu hiệu hệ thống thông tin kế toán DNNVV tại TP. Hồ Chí Minh

Hoàng Thị Hương: Nhu cầu vận dụng IFRS tại các doanh nghiệp sản xuất bia - rượu - nước giải khát Việt Nam: Nghiên cứu điển hình tại Sabeco và Habeco

Nguyễn Lê Hiệp, Trần Hạnh Lợi: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự cam kết gắn bó của nhân viên với tổ chức tại Vietcombank - Chi nhánh Huế

Lê Trà My, Trần Thị Hồng Quyên, Hoàng Gia Huy: Thực trạng áp dụng kế toán quản trị môi trường tại các doanh nghiệp điện ở Việt Nam

Lê Minh Trâm, Trần Thanh Giang: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ giao hàng chặng cuối của các nhà cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba tại Việt Nam

Dương Bảo Trung, Nguyễn Hoàng Lân: Ảnh hưởng của KOLs đến hành vi mua sắm của giới trẻ trên nền tảng TikTok tại TP. Hồ Chí Minh

Trịnh Thùy Dương, Trịnh Thị Hương: Nhận diện các loại lãng phí trong cơ sở giáo dục đại học

Nguyễn Thị Thanh Dần, Nguyễn Quang Chương: Tổ chức quản lý bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam

Vũ Xuân Hà, Trần Thị Tuyết Mai: Ảnh hưởng của văn hóa tổ chức và sự hài lòng trong công việc đến sự gắn bó của người lao động tại các trường đại học trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

Nguyễn Hùng Cường, Ngô Thị Hồng Nhung, Vũ Mạnh Cường: Nghiên cứu mức độ hài lòng với cơ chế trò chơi hóa trong đào tạo trực tuyến đối với sinh viên tại Học viện Phụ nữ Việt Nam

Trần Thị Ngọc Anh, Vũ Thị Phương Thụy, Nguyễn Thị Thu Hương: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện tổ chức công tác kiểm soát nội bộ tại Công ty TNHH MTV Phát triển Khu công nghệ cao Hòa Lạc - Điển hình tại Xí nghiệp Xây lắp HHPD

Nguyễn Hoàng Phước Hiền: Những nhân tố ảnh hưởng đến sự gắn kết của nhân viên đối với Công ty Cổ phần May Bình Minh

Phạm Thị Thùy Duyên: Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hướng dẫn viên du lịch nội địa tại tỉnh Bình Định

IN THIS ISSUE

Nguyen Thanh Huyen: Factors affecting non-performing loans at commercial banks in Vietnam

Nguyen Thi Kim Oanh: Employing Logistic regression to forecast financial distress in listed mining companies

Vu Quynh Van: Factors affecting the development of logistics services in FDI enterprises in Vietnam

Dam Thi Thu Trang: Impact of livelihood diversification on household income in Vietnam: Results from instrumental variables regression

Nguyen Thi Lien Huong, Ngo Thi Ngoc: Impact of corporate social responsibility disclosure on the cost of equity of listed companies in food and beverage industry

Hoang Thi Thu Ha, Nguyen Thi Tuyet Mai: Factors affecting firm performance of information technology enterprises

Nguyen Thi Huong Giang: Impact of the Covid-19 pandemic on supply chain management of information technology services

Pham Ngoc Duy: Influence of institutional quality on the development of enterprises

Truong Dinh Hai Thuy, Nguyen Thi Tran Loc, Pham Ngoc Trinh: Development of agile business model

Nguyen La Soa: Application of international financial reporting standards in Vietnamese enterprises - Theory and practice

Nguyen Phuong Nam: Factors affecting the intention to use e-banking of consumers in Ho Chi Minh City

Duong Trung Kien: A study on facilities and equipment of commune/ward health stations in the period of 2019-2025

Le Thi Thanh Dung: Customer experience management and customer satisfaction with beauty services at beauty centers in Hanoi

Nguyen Thi Ngoc Phuong: The relationship between corporate social responsibility, psychological capacity and organizational commitment of employee to seafood enterprises in the Mekong Delta

Chau Thi Le Duyen, Phuoc Minh Hiep, Nguyen Thanh Liem, Tran Giai Phong: Factors affecting the decision to buy health insurance of households in Can Tho city

Pham Quang Huy, Do Thi Thuy An: Impact of micro factors on the effectiveness of accounting information system in Ho Chi Minh City-based SMEs

Hoang Thi Huong: The need to apply IFRS in Vietnamese enterprises in beer, wine, beverage industry: Case studies at Sabeco and Habeco

Nguyen Le Hiep, Tran Hanh Loi: Determinants of employee commitment to the organization - Case study at Vietcombank - Hue Branch

Le Tra My, Tran Thi Hong Quyen, Hoang Gia Huy: Reality of applying environmental management accounting in electricity companies in Vietnam..

Le Minh Tram, Tran Thanh Giang: Research on factors impacting the quality of last mile delivery services of third-party logistics providers in Vietnam

Duong Bao Trung, Nguyen Hoang Lan: Influence of KOLs on shopping behavior on TikTok platform of young people in Ho Chi Minh City

Trinh Thuy Duong, Trinh Thi Huong: Identifying wastes in higher education institutions

Nguyen Thi Thanh Dan, Nguyen Quang Chuong: Management of protecting intellectual property rights in small and medium-sized enterprises in Vietnam

Vu Xuan Ha, Tran Thi Tuyet Mai: Influence of organizational culture and job satisfaction on employee engagement to universities in Ho Chi Minh City

Nguyen Hung Cuong, Ngo Thi Hong Nhung, Vu Manh Cuong: Research on the satisfaction of students at Vietnam Women’s Academy with gamification in e-learning

Tran Thi Ngoc Anh, Vu Thi Phuong Thuy, Nguyen Thi Thu Huong: Reality and solutions to improve internal control at Hoa Lac Hi-tech Park Development One Member Limited Company - Typical at HHPD Construction Enterprise

Nguyen Hoang Phuoc Hien: Determinants of employee engagement to Binh Minh Garment Joint Stock Company

Pham Thi Thuy Duyen: Factors affecting the quality of domestic tour guides in Binh Dinh province