Tháo gỡ vướng mắc trong tiếp cận vốn tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tóm tắt
Thời gian qua, cơ chế chính sách về tín dụng và hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ngày một kiện toàn, tạo điều kiện thuận lợi, góp phần giúp doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, thực tế, các DNNVV hiện nay vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng, điều này đòi hỏi phải tiếp tục có các giải pháp để tháo gỡ kịp thời.
Từ khóa: tín dụng, tiếp cận vốn, doanh nghiệp nhỏ và vừa
Summary
Over the past time, mechanisms and policies on credit and credit support for small and medium-sized enterprises (SMEs) have been increasingly consolidated, creating favorable conditions for enterprises to expand production and business activities and improve competitiveness. However, in reality, SMEs are still facing many difficulties and obstacles in accessing credit capital, which requires continuing to have solutions to solve these problems in a timely manner.
Keywords: credit, access to capital, small and medium-sized enterprises
THỰC TRẠNG TIẾP CẬN VỐN TÍN DỤNG CỦA DNNVV
Kết quả đạt được
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2022), đến cuối năm 2020, Việt Nam có khoảng 800.000 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó 98% là DNNVV, thu hút hơn 5,6 triệu lao động, đóng góp khoảng 45% tổng sản phẩm trong nước (GDP) và 31% vào tổng thu ngân sách hàng năm. Với đóng góp to lớn như vậy, thời gian qua, Nhà nước đã nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của khu vực DNNVV và ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ cho DNNVV phát triển sản xuất, kinh doanh, nhất là vấn đề tiếp cận nguồn vốn tín dụng.
Cụ thể, ngày 16/05/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp với mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp hoạt động. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành nhiều giải pháp nhằm hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, nhất là DNNVV, trong đó có những giải pháp hỗ trợ về tiếp cận tín dụng.
Ngày 12/06/2017, Quốc hội thông qua Luật Hỗ trợ DNNVV, tạo khuôn khổ pháp lý hỗ trợ hoạt động của DNNVV. Theo đó, 3 nhóm đối tượng gồm DNNVV chuyển đổi từ hộ kinh doanh, DNNVV khởi nghiệp sáng tạo và DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị sẽ được hỗ trợ theo các hình thức sau: (1) Hỗ trợ tiếp cận tín dụng; (2) Hỗ trợ thuế, kế toán; (3) Hỗ trợ mặt bằng sản xuất; (4) Hỗ trợ công nghệ, hỗ trợ cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung; (5) Hỗ trợ mở rộng thị trường; (6) Hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý; (7) Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực.
Ngày 08/3/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 34/2018/NĐ-CP về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV nhằm cấp bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV vay vốn tại các tổ chức cho vay theo quy định.
Đặc biệt, bám sát chỉ đạo và định hướng của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai một loạt giải pháp nhằm tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận vốn ngân hàng phát triển và mở rộng sản xuất, kinh doanh như:
(i) Quy định trần lãi suất đối với các lĩnh vực ưu tiên phát triển, trong đó có DNNVV được hưởng lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND thấp hơn 1%-2%/ năm so với các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thông thường (theo Quyết định số 1425/QĐ-NHNN, ngày 07/7/2017 và Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước);
(ii) Ban hành các chương trình tín dụng đặc thù đối với một số ngành/lĩnh vực, như: cho vay phát triển sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết, nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (theo Quyết định số 813/QĐ-NHNN, ngày 24/4/2017 của Ngân hàng Nhà nước và Nghị quyết số 30/NQ-CP, ngày 07/3/2017 của Chính phủ); cho vay trên cơ sở bảo lãnh các tổ chức bảo lãnh cho các DNNVV sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển (theo Thông tư số 01/2016/TT-NHNN, ngày 04/02/2016 của Ngân hàng Nhà nước).
Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các tổ chức tín dụng đa dạng hóa các chương trình sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, đơn giản hóa thủ tục vay vốn, chuẩn hóa quy trình thu thập khai thác thông tin khách hàng, qua đó nâng cao hiệu quả thẩm định, đánh giá tín nhiệm và tăng cường cho vay không có tài sản đảm bảo, triển khai các chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn cho DNNVV trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.
Qua đó, các tổ chức tín dụng đã chủ động tiếp cận DNNVV, triển khai đa dạng các gói sản phẩm, phát triển nhiều dịch vụ ngân hàng, như: bảo lãnh, tài trợ thương mại, miễn phí dịch vụ thanh toán điện tử, phát triển các ứng dụng ngân hàng dành riêng cho DNNVV... Quy trình, thủ tục cấp tín dụng đối với doanh nghiệp ngày càng đơn giản, phù hợp. Nhiều tổ chức tín dụng đã xây dựng thành công các mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ, tối ưu hóa việc phân tích, đánh giá, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp trước khi ra quyết định cho vay; thành lập riêng bộ phận chuyên quản lý về hoạt động cho vay đối với DNNVV; đồng thời, cho phép áp dụng đa dạng, linh hoạt các biện pháp về tài sản bảo đảm để tháo gỡ khó khăn về việc thiếu tài sản bảo đảm của DNNVV.
Nhìn chung, chính sách về tín dụng và hỗ trợ vay vốn từng bước được hoàn thiện theo hướng tạo thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho khu vực DNNVV phát triển. Các cơ chế hỗ trợ tiếp cận tín dụng qua hệ thống ngân hàng thương mại cũng dần hoàn thiện, nhằm tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho DNNVV.
Nhờ đó, hiện nay hầu hết các tổ chức tín dụng đã tham gia cho vay đối với khu vực DNNVV. Theo Ngân hàng Nhà nước (2023), bình quân giai đoạn 2018-2022, dư nợ tín dụng đối với DNNVV tăng 14,17%, cao hơn bình quân chung toàn nền kinh tế. Đến cuối năm 2022, dư nợ tín dụng đối với DNNVV tăng 8,28% so với cuối năm 2021, chiếm khoảng gần 19% tổng dư nợ tín dụng chung toàn nền kinh tế.
Dư nợ tín dụng DNNVV phần lớn tập trung vào khu vực thương mại và dịch vụ (56,29%), công nghiệp và xây dựng (40,85%). Các ngân hàng thương mại nhà nước đang cho vay DNNVV chiếm 48,05%; khối ngân hàng thương mại cổ phần cho vay chiếm 47,43%; khối ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính và Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam tham gia cho vay 4,52%.
Một số hạn chế, khó khăn
Có thể thấy, DNNVV là một trong những đối tượng được ưu tiên cấp tín dụng và được triển khai nhiều giải pháp để hỗ trợ khơi thông, hướng dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên. Đồng thời, kết quả tín dụng đối với DNNVV thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực, quy mô vốn tín dụng ngày càng lớn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều DNNVV vẫn khó tiếp cận vốn ngân hàng, tỷ lệ DNNVV tiếp cận nguồn tài chính chính thống hiện nay còn thấp. Theo kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, các DNNVV tiếp cận các nguồn tài chính chính thống qua hệ thống ngân hàng và các nguồn chính thống khác chỉ chiếm khoảng 25%, còn đến 75% vẫn phải đi huy động bạn bè, vay mượn phi chính thống. Trong các nguồn tài chính của DNNVV, 90% tiếp cận từ ngân hàng, 10% từ các nguồn khác, như: cho thuê, thanh toán (Phúc Lâm, 2023). Kết quả tiếp cận tín dụng qua Quỹ Phát triển DNNVV cũng còn nhiều hạn chế.
Có nhiều nguyên nhân cản trở DNNVV tiếp cận vốn tín dụng, song tựu chung ở một số vấn đề như sau:
Về phía Nhà nước
- Các thiết chế về quyền sử dụng đất chưa tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Chẳng hạn, trong lĩnh vực cho vay lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, tài sản đảm bảo cho khoản vay thường là đất nông nghiệp có giá trị thấp, trong khi tài sản trên đất nông nghiệp chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu để làm thủ tục đăng ký giao dịch đảm bảo vay vốn ngân hàng…
- Sự liên kết giữa các chính sách và các bộ, ban, ngành trong việc phối hợp hỗ trợ, đào tạo nâng cao năng lực của khối DNNVV còn hạn chế, dẫn đến chưa phát huy được tổng thể nguồn lực của các bên liên quan nhằm hỗ trợ tốt hơn đối với DNNVV. Các chính sách hỗ trợ còn tản mát nhiều nơi, chưa có đầu mối thống nhất để tổng hợp cung cấp các thông tin về chính sách hỗ trợ cho DNNVV.
Về phía các tổ chức tín dụng
- Trong bối cảnh thực hiện cơ cấu lại hoạt động ngân hàng, các tổ chức tín dụng đang ngày càng đẩy mạnh áp dụng các chuẩn mực quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế, đòi hỏi ngày càng cao tính minh bạch về thông tin, tài chính, tài sản bảo đảm của khách hàng, do đó, không thể thực hiện các giải pháp về “hạ chuẩn” điều kiện cấp tín dụng.
- Việc tiếp cận thông tin về các DNNVV còn hạn chế do hiện nay các tổ chức tín dụng chủ yếu khai thác thông tin thông qua việc tìm hiểu trực tiếp doanh nghiệp và qua Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC), chưa khai thác được tối đa các thông tin từ các hiệp hội, ngành nghề, cơ quan thuế, cơ quan hải quan...
- Thủ tục vay vốn còn phức tạp, qua nhiều quy trình. Các sản phẩm tín dụng dành cho DNNVV hiện nay của các tổ chức tín dụng chưa phong phú, một số DNNVV không tìm được các sản phẩm tín dụng phù hợp…
- Còn tồn tại tâm lý phân biệt đối xử khi quyết định cho DNNVV vay vốn. Báo cáo Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên năm 2017 của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho thấy, xác suất hồ sơ xin vay vốn được chấp nhận giải ngân sẽ bị giảm khoảng 23,7 điểm % đến 26 điểm % nếu doanh nghiệp nộp hồ sơ xin vay thuộc DNNVV. Ngược lại, xác suất sẽ tăng khoảng 2,3 đến 2,8 điểm % nếu doanh nghiệp đó thuộc sở hữu nhà nước.
Về phía các DNNVV
- Các DNNVV gặp hạn chế trong tiếp cận thông tin, trình độ nhân lực, quản trị dẫn tới kỹ năng hoạch định, xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh thiếu tính khả thi và chưa có kế hoạch ứng phó với biến động của giá cả, thị trường… Một bộ phận DNNVV chưa nhận thức được tầm quan trọng của công tác lập dự án kinh doanh, chỉ coi công tác lập dự án là thủ tục để huy động vốn. Tài sản bảo đảm của các DNNVV cũng chưa đáp ứng được các yêu cầu của tổ chức tín dụng như: tính pháp lý của tài sản chưa rõ ràng, tài sản không khả mại, giá trị bảo đảm thấp…
- Số liệu tài chính thiếu minh bạch, chính xác, thiếu tài sản bảo đảm, không có báo cáo tài chính được kiểm toán, báo cáo thuế lại có sự khác biệt với báo cáo tài chính nội bộ, chứng từ kế toán không đáp ứng các chuẩn mực theo quy định nên ngân hàng khó xem xét cấp tín dụng. Đa số các DNNVV khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng là các DNNVV mới thành lập, mới gia nhập các ngành, lĩnh vực kinh tế mới, vì vậy, tổ chức tài chính không có dữ liệu lịch sử hoạt động, không thể thực hiện xếp hạng tín nhiệm khi thẩm định, đánh giá khả năng trả nợ của DNNVV. Các tổ chức tín dụng cũng gặp khó khăn trong việc quản lý dòng tiền do nhiều DNNVV chưa có sự hợp tác chặt chẽ với ngân hàng.
GIẢI PHÁP ĐẶT RA
Với điều kiện của nền kinh tế nước ta, DNNVV giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong việc đóng góp vào mức tăng trưởng GDP, đáp ứng nhu cầu việc làm và các vấn đề xã hội khác. Tuy nhiên, so với các doanh nghiệp lớn, DNNVV có nhiều đặc điểm khác biệt và đặc điểm này có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tiếp cận vốn của DNNVV. Trong thời gian tới, để các DNNVV tiếp cận được vốn tín dụng ngân hàng dễ dàng hơn, tác giả đề xuất một số giải pháp và kiến nghị như sau:
Đối với Nhà nước
Để tiếp tục mở rộng tín dụng hiệu quả, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho DNNVV trong thời gian tới, cần tập trung điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ổn định tỉ giá và ổn định mặt bằng lãi suất cho vay góp phần tạo lập môi trường kinh doanh ổn định cho người dân, doanh nghiệp. Trong đó, tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế chính sách tín dụng ngân hàng, tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn cho DNNVV tiếp cận vốn; phối hợp với các bộ, ngành trong việc triển khai các chính sách hỗ trợ DNNVV tại Luật Hỗ trợ DNNVV, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ DNNVV tiếp cận vốn thông qua Quỹ Phát triển DNNVV, Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV tại địa phương; khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới hoạt động ở những nơi chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của người dân, doanh nghiệp, đặc biệt tại khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác truyền thông, nhằm phổ biến kiến thức, hiểu biết của DNNVV về tiền tệ, hoạt động ngân hàng; đăng tải đầy đủ, kịp thời các chương trình, chính sách tín dụng do ngành ngân hàng triển khai để DNNVV nắm bắt đầy đủ thông tin về các chương trình và cách thức tiếp cận vốn vay.
UBND các tỉnh, thành phố cần tiếp tục phối hợp với ngành ngân hàng triển khai Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp để nắm bắt và xử lý kịp thời các khó khăn của DNNVV.
Đối với các tổ chức tín dụng
Thứ nhất, cần triển khai hiệu quả, kịp thời chương trình, chính sách tín dụng theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước, trong đó có đối tượng thụ hưởng là DNNVV. Tiếp tục tập trung vốn đối với các lĩnh vực ưu tiên sản xuất; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động tín dụng, ngân hàng.
Thứ hai, huy động và đáp ứng đủ nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn, mở rộng tín dụng cho DNNVV. Chú trọng huy động nguồn vốn ổn định từ dân cư và các tổ chức kinh tế. Để đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh của DNNVV, các tổ chức tín dụng cần đa dạng các hình thức huy động vốn, trong đó cung cấp kịp thời các sản phẩm tiền gửi cho khách hàng với các hình thức đa dạng, phong phú, nhất là các loại sản phẩm huy động vốn (đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn) trên nền tảng công nghệ hiện đại và mang nhiều tiện ích cho khách hàng. Tăng cường huy động vốn tại các đô thị, thành phố để chuyển tải về nông thôn, đảm bảo các yêu cầu vốn để phục vụ DNNVV thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau…
Thứ ba, rút ngắn thời gian thẩm định tín dụng và đơn giản hóa thủ tục vay vốn cho các DNNVV. Mặt khác, các ngân hàng cần tiếp tục hoàn thiện quy trình vay vốn của mình để có sức hấp dẫn DNNVV tiềm năng.
Thứ tư, các tổ chức tín dụng cần tăng cường vai trò tư vấn cho DNNVV về các cách tiếp cận dịch vụ, tiện ích của ngân hàng một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Khả năng có thể thực hiện cung cấp vốn vay một cách hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Để đảm bảo an toàn và hiệu quả đối với khoản vay, ngân hàng nên thường xuyên theo dõi, đánh giá tình hình tài chính, cũng như các hoạt động của DNNVV. Điều quan trọng là ngân hàng đóng vai trò tư vấn về quản lý tài chính, lập hồ sơ và lập dự án vay vốn ngân hàng để khách hàng dễ tiếp cận được vốn vay ngân hàng, sử dụng vốn vay hiệu quả, đó cũng là cách tốt nhất đảm bảo người vay trả nợ đúng hạn. Nếu làm tốt điều này, không những uy tín của ngân hàng nâng lên, mà ngân hàng còn trở thành người bạn đồng hành đáng tin cậy của khách hàng. Trong quan hệ vay vốn, việc tạo lập được quan hệ lâu dài, trên tinh thần tương hỗ lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cả hai phía, vừa thúc đẩy mở rộng cho vay một cách hiệu quả của ngân hàng, vừa đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn cho DNNVV.
Thứ năm, xây dựng mục tiêu tín dụng và chính sách lãi suất đối với DNNVV. Hoàn thiện quy trình thẩm định tín dụng chặt chẽ và đảm bảo thực hiện đúng quy trình trước khi giải ngân. Đồng thời, giám sát tình hình sử dụng vốn vay của DNNVV sau khi giải ngân.
Đối với DNNVV
Một là, để nắm bắt thời cơ, DNNVV cần tự xây dựng kế hoạch kinh doanh để có thể tiếp nhận được những điều kiện tốt và phù hợp. Bởi, bên cạnh các chính sách của Chính phủ, cơ chế cho vay hoặc hỗ trợ vốn của các tổ chức tín dụng, thì yếu tố quyết định vẫn là nỗ lực của bản thân DNNVV. Các DNNVV cần đánh giá lại chiến lược sản phẩm, marketing, nhân lực nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và đổi mới công nghệ tương ứng, tích cực, chủ động tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính, ngân hàng đặc biệt là các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ về quản lý tài chính, lập dự án kinh doanh.
Hai là, các DNNVV cần chấp hành nghiêm chỉnh Luật Doanh nghiệp, Luật Kế toán và các quy định về tài chính, kế toán của Nhà nước, thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm, cung cấp thông tin báo cáo chính xác và kịp thời cho các tổ chức tín dụng khi có yêu cầu. Đây được coi là cơ sở quan trọng để ngân hàng đầu tư vốn.
Mặt khác, các DNNVV cần đảm bảo sử dụng vốn vay ngân hàng đúng mục đích, tuân thủ các nội dung trong hợp đồng tín dụng; phối hợp với ngân hàng trong việc thẩm định, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay; thiện chí, hợp tác với ngân hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm.
Ba là, các DNNVV cần đổi mới và nâng cao trình độ quản trị điều hành doanh nghiệp, đáp ứng các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế; không ngừng đổi mới công nghệ, nắm bắt thông tin, chú trọng các sản phẩm hàng hóa làm ra phải có tính cạnh tranh và thị trường tiêu thụ; tăng cường bổ sung nguồn vốn chủ sở hữu; nâng cao trình độ và kỹ năng nghề nghiệp cho nhân viên.../.
ĐOÀN ANH TUẤN - Học viện Chính sách và Phát triển
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 11 - tháng 4/2023)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2022), Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2022, Nxb Thống kê.
2. Bùi Huy Trung, Mai Hương Giang (2021), Nâng cao khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho DNNVV Việt Nam, Tạp chí Tài chính, kỳ 2 tháng 6/2021.
3. Chính phủ (2016), Nghị quyết số 35/NQ-CP, ngày 16/05/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp.
4. Chính phủ (2018), Nghị định số 34/2018/NĐ-CP, ngày 08/03/2018 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.
5. Ngân hàng Nhà nước (2023), Tài liệu Hội nghị “Giải pháp tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho DNNVV phục hồi phát triển sản xuất”, ngày 15/3/2023.
6. Phúc Lâm (2023), Đẩy mạnh các giải pháp tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phục hồi, phát triển sản xuất kinh doanh, truy cập từ https://tapchinganhang.gov. vn/day-manh-cac-giai-phap-tang-kha-nang-tiep-can-von-tin-dung-cho-doanh-nghiep-nho-va-vua-phuc-hoi-phat.htm.
7. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2017), Báo cáo Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên năm 2017.
Bình luận