THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ DNNN GIAI ĐOẠN 2011-2020

Kết quả đạt được

Với quá trình đẩy mạnh cổ phần hóa, số lượng DNNN giảm dần, chiếm tỷ trọng thấp về số lượng trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Tuy nhiên, các DNNN vẫn nắm giữ nguồn lực lớn về vốn, tài sản, tạo nguồn doanh thu và đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước. Mặc dù hiện nay số lượng DNNN không lớn, chỉ chiếm khoảng 0,07% số doanh nghiệp cả nước, nhưng đóng góp tới 7% tổng tài sản, 10% tổng vốn các doanh nghiệp trên thị trường và 30% GDP, chưa kể tới đóng góp về lao động, việc làm và vai trò điều tiết, ổn định thị trường khi có bất ổn, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng - an ninh... (PV, 2021).

Với vai trò quan trọng nói trên, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020, Đề án tái cơ cấu DNNN 2011-2015 (theo Quyết định số 929/2012/QĐ-TTg, ngày 17/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ) và Đề án cơ cấu lại DNNN 2016-2020 (theo Quyết định số 707/2017/QĐ-TTg, ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ) đều xác định hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đối với DNNN là một nhiệm vụ trọng tâm của cơ cấu lại khu vực DNNN; đồng thời, đề ra mục tiêu đến năm 2020 phải đáp ứng chuẩn mực quốc tế về quản trị DNNN.

Nâng cao năng lực quản trị ở các DNNN ở Việt Nam hiện nay
Đổi mới phương thức quản trị DNNN được coi là một trong những giải pháp căn cơ nhằm cải thiện chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp. Ảnh minh họa.

Thực tế, trong những năm trở lại đây, đổi mới phương thức quản trị DNNN được coi là một trong những giải pháp căn cơ nhằm cải thiện chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp này, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng.

Việc áp dụng các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp hiện đại trong quản trị DNNN có thể làm gia tăng năng suất lao động của các doanh nghiệp này và có thể hiện thực hóa trong ngắn hạn thay vì việc đổi mới công nghệ sản xuất sẽ có hiệu quả trong dài hạn. Để hỗ trợ áp dụng các phương thức quản trị hiện đại đối với doanh nghiệp nói chung, DNNN nói riêng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 704/QĐ-TTg, ngày 11/6/2012 phê duyệt Đề án đổi mới quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị trường.

Trên thực tế, đổi mới phương thức quản lý của Nhà nước đối với các DNNN đã và đang tạo chuyển biến tích cực các hoạt động nói chung, năng lực quản trị của DNNN nói riêng. Việc thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thay mặt Chính phủ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu vốn nhà nước tại các tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty và các DNNN có quy mô lớn đang thay đổi diện mạo của các DNNN. Hoạt động quản trị của các DNNN đang tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế và tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường.

Hệ thống hành lang pháp lý quy định các mặt hoạt động của DNNN đã đảm bảo được sự nhất quán và thống nhất với chủ trương tạo lập khung khổ pháp lý cho DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường, như: Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (năm 2014), Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành trung ương khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN; Nghị định số 10/2019/NĐ-CP, ngày 30/01/2019 của Chính phủ về thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước... Việc DNNN hoạt động bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân là tiền đề để áp dụng khung khổ quản trị doanh nghiệp hiện đại theo thông lệ quốc tế.

Bên cạnh đó, nhờ hệ thống thể chế, pháp luật đã dần được hoàn thiện, mà quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của DNNN theo nguyên tắc thị trường đã được đảm bảo. So với thông lệ và kinh nghiệm quốc tế cho thấy, Việt Nam đã có nhiều cải thiện trong tạo lập khuôn khổ đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của DNNN theo nguyên tắc thị trường theo hướng tiệm cận với thông lệ quốc tế phổ biến.

Một số hạn chế, tồn tại

Tuy nhiên, năng lực quản trị của khu vực DNNN đã và đang đặt ra không ít vấn đề, cụ thể như sau:

Thứ nhất, DNNN trên thực tế chưa có đầy đủ quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo cơ chế thị trường. Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2021) tại Hội thảo “Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc thị trường” vào ngày 29/01/2021, thực tế, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của DNNN theo nguyên tắc thị trường đã được đảm bảo, nhưng chưa đầy đủ. Hệ thống thể chế, pháp luật đã được hoàn thiện nhằm đảm bảo DNNN có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo nguyên tắc thị trường, nhưng vẫn tạo ra nhiều ràng buộc, gây khó khăn cho DNNN và bộ máy quản lý DNNN. So với thông lệ và kinh nghiệm quốc tế cho thấy, Việt Nam đã có nhiều cải thiện trong tạo lập khuôn khổ đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của DNNN theo nguyên tắc thị trường theo hướng tiệm cận với thông lệ quốc tế phổ biến, nhưng nhiều nội dung còn có khoảng cách khá xa.

Ví dụ thực tế từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Điều 25, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp quy định doanh nghiệp được quyền cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản cố định theo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn (không giới hạn mức). Tuy vậy, Nghị định số 10/2017/NĐ-CP, ngày 9/02/2017 ban hành Quy chế quản lý tài chính của Tập đoàn Điện lực Việt Nam và sửa đổi, bổ sung khoản 4 điều 4 Nghị định số 209/2013/NĐ-CP, ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định quy chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng lại quy định cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản không vượt quá mức vốn của dự án nhóm B… Điều này làm cho DNNN đặc biệt là EVN đang bị "cầm chân" và loay hoay trong huy động vốn (Lê Anh, 2021).

Thứ hai, còn khoảng cách khá xa so với chuẩn mực quốc tế về quản trị DNNN:

- Về đảm bảo khung khổ quản trị DNNN thống nhất với doanh nghiệp khác: Mặc dù đã hình thành pháp luật kinh doanh và cạnh tranh thống nhất, bình đẳng, nhưng việc thực thi chưa nghiêm và những ưu đãi trên thực tế cho DNNN đang là rào cản để DNNN đáp ứng chuẩn mực quản trị hiện đại, điển hình là việc không quyết liệt thực hiện thủ tục phá sản một số DNNN trong tình trạng phải bị phá sản, việc hỗ trợ một số dự án thua lỗ không có dấu hiệu phục hồi… (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, 2019).

- Về mặt pháp luật, hệ thống quy định đặc thù về quản lý doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và quản lý phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp đa sở hữu, một mặt, làm giảm quyền tự chủ của DNNN, mặt khác, làm cho kết cấu quản trị DNNN trở nên phức tạp bởi các quyết định quản lý của DNNN phụ thuộc rất lớn vào cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước bên ngoài doanh nghiệp, kể cả đối với DNNN là công ty cổ phần.

- Trong phạm vi đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý sử dụng vốn của doanh nghiệp, thì vấn đề việc xác định vốn/tài sản của doanh nghiệp còn thiếu sự thống nhất, chưa hiểu đúng theo quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp về tài sản của pháp nhân doanh nghiệp, về việc chuyển quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp sau góp vốn của chủ sở hữu. Đồng thời, vẫn coi phần vốn góp của chủ sở hữu nhà nước trong vốn điều lệ của doanh nghiệp là tiền vốn/tài sản của Nhà nước, mà không coi đây là nghĩa vụ phải góp vốn của chủ sở hữu (nhà nước) với tư cách là nhà đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Cho nên khi xây dựng pháp luật có nội dung quản trị doanh nghiệp vẫn còn quan điểm cho rằng, cơ quan quản lý nhà nước có quyền can thiệp hành chính trong quá trình doanh nghiệp sử dụng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó tính đồng bộ của hệ thống pháp luật chưa được đảm bảo.

- Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (năm 2014) và các văn bản hướng dẫn đã quy định chi tiết về quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với DNNN. Tuy nhiên, trên thực tế, các quy trình, thủ tục của cơ quan đại diện chủ sở hữu thường có độ trễ nhất định, trong khi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải đưa ra những quyết định nhanh, kịp thời để đón cơ hội đầu tư. Đồng thời, một số cơ chế, chính sách (như các văn bản quy định về tiền lương, quỹ khoa học công nghệ của DNNN…) chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp… Chính điều này đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động và vai trò của DNNN. Ngoài ra, DNNN được giao một khối lượng tài sản rất lớn để kinh doanh nhưng hệ thống quản lý, giám sát của một số DNNN không theo kịp với yêu cầu thực tiễn, thiếu hiệu lực và kém hiệu quả, dẫn tới không ngăn ngừa và cảnh báo được các nguy cơ làm doanh nghiệp bị thua lỗ, mất vốn nhà nước.

- Về quản lý, điều hành DNNN:

i) Về việc giao mục tiêu, nhiệm vụ, cơ chế hiện hành chưa tạo áp lực mạnh cho người quản lý DNNN phải nâng cao trách nhiệm sử dụng hiệu quả vốn nhà nước. Việc giao nhiệm vụ kinh tế cho DNNN chủ yếu dưới hình thức phê duyệt kế hoạch đăng ký hằng năm của doanh nghiệp với các chỉ tiêu tài chính “năm sau cao hơn năm trước”.

ii) Năng lực quản lý, điều hành của một số cán bộ quản lý DNNN còn hạn chế. Bên cạnh đó, quyền chủ động của lãnh đạo, quản lý DNNN trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường còn bị hạn chế. Lãnh đạo DNNN còn e ngại khi ra quyết định, sợ bị quy kết, làm sai trong khung quy định cứng nhắc. Sai lầm không chỉ khiến mất vốn, thiệt hại về kinh tế, mà còn là sinh mạng chính trị.

Nói về thực trạng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt DNNN, tại Hội thảo với chủ đề “Xây dựng đội ngũ lãnh đạo chủ chốt tại các doanh nghiệp nhà nước ngang tầm nhiệm vụ: thực trạng và giải pháp” do Ban Kinh tế Trung ương phối hợp Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp tổ chức vào ngày 04/12/2021, ông Chu Đình Động, Uỷ viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tổ chức Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương cho biết, trong thời gian qua, vẫn còn một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp trong Khối chưa đáp ứng yêu cầu về năng lực quản lý, điều hành; tầm nhìn và khả năng hoạch định chiến lược sản xuất kinh doanh còn hạn chế, chậm thích ứng với hội nhập quốc tế; có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái, vi phạm pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng đến mức phải xử lý theo quy định (Thùy Dung, 2021).

iii) Việc tổ chức thực hiện pháp luật về công bố thông tin còn hạn chế, mang tính hình thức, kể cả về nội dung thông tin công bố, phương tiện công bố và cơ chế kiểm soát, kiểm chứng chất lượng thông tin.

iv) Việc giám sát, kiểm tra nội bộ DNNN nặng về hình thức, chưa hiệu quả do thiếu tách bạch giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát.

v) Việc ứng dụng công nghệ tiên tiến còn chậm và yếu. Cho đến nay, phần lớn doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam vẫn đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2-3 thế hệ (Hải Yến, 2021).

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT

Nhằm nâng cao năng lực quản trị của DNNN, theo chúng tôi, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Đối với các cơ quan quản lý nhà nước

Một là, thành lập tổ chức quản lý cấp quốc gia về quản trị doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần sớm nghiên cứu, đề xuất việc thành lập một Tổ chức cấp quốc gia để chỉ đạo và định hướng công tác quản trị doanh nghiệp nói chung và quản trị DNNN nói riêng một cách có hiệu quả.

Hai là, nâng cao hiệu quả giám sát tuân thủ quản trị của các doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng cần chủ động, thường xuyên rà soát các quy định về quản trị nhằm nâng cao hiệu quả giám sát việc tuân thủ các quy định về quản trị. Bên cạnh đó, cần sớm đưa vào triển khai áp dụng các chế tài cụ thể đối với các doanh nghiệp chưa thực hiện hoặc chưa xây dựng lộ trình thực hiện theo các chuẩn mực quản trị tốt, từ đó đảm bảo tính hiệu lực của quy định trên thực tế, đồng thời tạo động lực để các doanh nghiệp nâng cao năng lực cán bộ quản trị.

Ba là, đẩy mạnh chuyển đổi số đối với doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thế giới đang thay đổi nhanh chóng bởi công nghệ và tri thức; cũng như nhiều quốc gia, Việt Nam đang trải qua cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, vấn đề nâng cao năng lực cán bộ quản trị là điều cần được đặt lên hàng đầu. Chính vì vậy, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cũng cần nghiên cứu và ban hành khung pháp lý về chuyển đổi số riêng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ hơn trong việc ứng dụng công nghệ vào quản trị tài chính, hướng tới chuẩn hóa hoạt động theo quy chuẩn quốc tế.

Đối với DNNN

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về vai trò và nguyên tắc quản trị. Để nâng cao năng lực quản trị, trước hết cán bộ quản trị cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vai trò và các nguyên tắc quản trị, làm cơ sở cho quá trình thực hành quản trị. Khi nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vai trò và các nguyên tắc quản trị, cán bộ quản trị sẽ tự nguyện hướng doanh nghiệp đi theo những nguyên tắc quản trị tốt nhất để tối đa hóa hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, nâng cao khả năng tiếp cận nhu cầu khách hàng, và thực hiện tốt hơn việc tuân thủ và giảm xung đột lợi ích giữa các bên có quyền lợi liên quan.

Thứ hai, chủ động áp dụng các công cụ để nâng cao chuẩn mực quản trị doanh nghiệp. Việc sử dụng công cụ này sẽ giúp doanh nghiệp xác định được cụ thể những điểm yếu/tồn tại trong quản trị của DNNN, từ đó xác định những điểm doanh nghiệp có thể cải thiện ngay và kế hoạch dài hạn để vươn tới những chuẩn mực cao hơn.

Thứ ba, xây dựng và ban hành hệ thống các quy chế nội bộ. Bên cạnh việc xây dựng một cơ cấu quản trị vững mạnh trên cơ sở tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam kết hợp với việc vận dụng các thông lệ quốc tế về quản trị doanh nghiệp, DNNN cần xây dựng và ban hành hệ thống các quy chế nội bộ nhằm tạo ra một cơ chế quản trị thống nhất và xuyên suốt để kiểm soát, giám sát hoạt động của doanh nghiệp một cách chuyên nghiệp, minh bạch và hiệu quả, góp phần đảm bảo lợi ích của cổ đông và sự hài hòa với lợi ích của các bên liên quan bao gồm cổ đông, khách hàng, người lao động và cộng đồng.

Đối với bản thân cán bộ quản trị DNNN

- Khoa học, kỹ thuật phát triển không ngừng nên mỗi cán bộ quản trị phải coi việc tự học tập nâng cao trình độ, năng lực là công việc thường xuyên, liên tục. Chỉ có như vậy các cán bộ quản trị mới nắm bắt được những thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật và theo kịp những thay đổi của môi trường chính trị trong nước và quốc tế.

- Xây dựng kế hoạch cho bộ phận phụ trách và kiểm soát quá trình hoàn thành mục tiêu. Việc này được thực hiện và quản lý bởi cán bộ quản trị cấp trung đưới sự chỉ đạo của cán bộ quản trị cấp cao. Do vậy, đội ngũ này cần được nâng cao kỹ năng năng lực quản lý mục tiêu, kiểm soát nội bộ, quản lý cuộc họp…

- Đối với cán bộ quản trị cấp trung: Tạo động lực làm việc, thu hút, khích lệ, giữ chân nhân viên, nhân sự tài năng. Đây là nhiệm vụ quan trọng vì bản thân cán bộ quản trị cấp trung là người trực tiếp làm việc với nhân viên cấp dưới, hiểu nhân sự của mình nhất và phải có biện pháp quản trị nhân sự tốt nhất./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) (2019). Tài liệu Hội thảo “Kinh tế nhà nước và cơ cấu lại DNNN: Thực hiện 2011-2020 và kiến nghị quan điểm, phương hướng đến năm 2030 để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2020 - 2030 và kế hoạch 2021-2025”, Hà Nội, ngày 12/6/2019

2. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2021). Tài liệu tại Hội thảo “Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc thị trường”, tổ chức vào ngày 29/01/2021

2. Nguyễn Vân Hà (2017). Nghệ thuật lãnh đạo, Nxb Lao động

3. Lê Anh (2021). Nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước, truy cập từ https://dangcongsan.vn/kinh-te/nang-cao-quyen-tu-chu-tu-chiu-trach-nhiem-cua-doanh-nghiep-nha-nuoc-573806.html

4. Thùy Dung (2021). Cán bộ yếu kém là điểm nghẽn khiến DNNN không phát huy được tiềm năng, truy cập từ https://laodong.vn/thoi-su/can-bo-yeu-kem-la-diem-nghen-khien-dnnn-khong-phat-huy-duoc-tiem-nang-980819.ldo

5. Vũ Văn Hà (2020). Xây dựng, phát huy vai trò của DNNN trong điều kiện hiện nay, truy cập từ https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/820756/xay-dung%2C-phat-huy-vai-tro-cua-doanh-nghiep-nha-nuoc-trong-dieu-kien-hien-nay.aspx

6. PV (2021). Nâng cao vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ mới, truy cập từ http://cmsc.gov.vn/xem-chi-tiet/-/asset_publisher/WqvULR6gmpvh/Content/nang-cao-vai-tro-chu-ao-cua-doanh-nghiep-nha-nuoc-trong-thoi-ky-moi?1734984

7. Hải Yến (2021). Đổi mới doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế, truy cập từ https://thoibaonganhang.vn/doi-moi-doanh-nghiep-nha-nuoc-con-han-che-113197.html

TS. Nguyễn Vân Hà, TS. Nguyễn Tuấn Anh, TS. Vũ Dương Hòa, ThS. Vũ Thị Yến, TS. Vũ Thị Ánh Tuyết

Học viện Ngân hàng

(Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 35, tháng 12/2021)