Tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Xúc tiến đầu tư Vùng, diễn ra hôm nay (ngày 12/02) tại Quảng Ninh, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng cho biết, vùng Đồng bằng sông Hồng gồm 11 tỉnh/thành phố, là vùng giao thoa với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng Thủ đô Hà Nội, nên có vai trò đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; có vị trí thuận lợi, hội tụ nhiều lợi thế về phát triển kinh tế - xã hội, là trung tâm hàng đầu về khoa học công nghệ, nhân lực.

Phát triển mạng lưới giao thông vận tải của vùng Đồng bằng sông Hồng đồng bộ, hiện đại
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng. Ảnh Hoài Anh

Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 14/9/2005, Kết luận số 13-KL/TW ngày 28/10/2011 về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng. Để phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021 - 2030, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 23/11/2022 để định hướng phát triển Vùng trong giai đoạn tiếp theo, trong đó đối với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã xác định rõ “đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông”, “phát triển hệ thống hạ tầng vùng gắn với đẩy mạnh đô thị hóa, kết nối đô thị” với các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể.

Sau 17 năm thực hiện Nghị Quyết số 54-NQ/TW và Kết luận số 13-KL/TW, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, những nhiệm vụ đặt ra đối việc việc phát triển kế cấu hạ tầng giao thông vận tải đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh của vùng Đồng bằng sông Hồng.

Theo thống kê, giai đoạn 2005-2020, ngân sách trung ương (Bộ Giao thông vận tải quản lý) đã huy động để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông quốc gia trong vùng lên đến khoảng 137 nghìn tỷ đồng.

Nhờ đó, diện mạo hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông của Vùng đã có sự thay đổi rõ rệt, nhiều công trình quan trọng đã được đầu tư đưa vào khai thác: (i) Về đường bộ, đã đưa vào khai thác 09 tuyến cao tốc, chiều dài 576 km; 25 tuyến quốc lộ, chiều dài 2.133 km; (ii) Về đường sắt, đã và đang cải tạo, nâng cấp duy trì khai thác 06 tuyến đường sắt quốc gia; (iii) Về hàng hải, đã đầu tư để hình thành 04 cảng biển Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định, Ninh Bình, trong đó cảng Hải Phòng là cảng cửa ngõ quốc tế; (iii) Về đường thủy nội địa, đang khai thác 37 tuyến đường thủy nội địa, đưa vào khai thác có hiệu quả tuyến vận tải thủy ven biển, vận tải từ bờ ra đảo; (v) Về hàng không, đang khai thác 03 cảng hàng không quốc tế Nội Bài, Cát Bi, Vân Đồn; (vi) Hệ thống giao thông địa phương được quan tâm đầu tư, kết nối có hiệu quả với hệ thống giao thông quốc gia.

Bên cạnh những kết quả đạt được, người đứng đầu Bộ Giao thông vận tải cũng chỉ rõ, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển trong bối cảnh mới, như: đầu tư kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, các công trình hạ tầng khung giao thông lớn kết nối các địa phương, các đô thị lớn trong Vùng chưa đưa vào khai thác (đường vành đai 4, 5); đầu tư đường sắt kết nối cảng hàng không, cảng biển chậm; đường thủy nội địa còn khai thác hạn chế; hệ thống vận tải hành khách công cộng đô thị chưa hiệu quả, chưa đồng bộ, thị phần vận chuyển hành khách thấp (Thủ đô Hà Nội mới đạt khoảng 13,5%, Hải Phòng đạt khoảng 1% - 2%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra khoảng 25 - 30% vào năm 2020); tốc độ tăng trưởng phương tiện cá nhân (ô tô con, xe máy) nhanh, chiếm tỷ trọng lớn trong giao thông đô thị, khó kiểm soát.

Nguyên nhân chủ yếu do: (i) quy hoạch thiếu tính liên kết, chưa đồng bộ; (ii) kế hoạch đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giữa các địa phương trong Vùng chưa chú trọng đến kết nối vùng, liên vùng; (iii) nguồn lực đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu; chưa có các cơ chế, chính sách đủ mạnh để huy động nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách; (iv) hệ thống thể chế chính sách còn bất cập, chậm đổi mới.

5 giải pháp để phát triển mạng lưới giao thông vận tải của vùng Đồng bằng sông Hồng đồng bộ, hiện đại

Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nêu rõ mục tiêu đến năm 2045, phát triển mạng lưới giao thông vận tải của vùng Đồng bằng sông Hồng đồng bộ, hiện đại đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần đưa nước ta cơ bản trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.

Để đạt được các mục tiêu phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đáp ứng nhu cầu phát triển, tạo động lực tăng trưởng cho Vùng, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải đã đưa ra một số giải pháp:

Một là, cần đổi mới tư duy, tầm nhìn, phát huy sự năng động, sáng tạo của các địa phương trong quy hoạch, quản lý, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông Vùng. Đẩy mạnh hợp tác, liên kết nội vùng, liên vùng trong quản lý, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông để tạo không gian kinh tế thống nhất, khắc phục các điểm nghẽn, tăng năng lực cạnh tranh vùng, phát triển kinh tế biển; đầu tư kết cấu hạ tầng cần xét đến yêu cầu thích ứng với biến đổi khí hậu.

Hai là, cần đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền cho các địa phương trong vùng đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng giao thông do Trung ương quản lý trên địa bàn tỉnh/thành phố, đặc biệt là các công trình đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng không để phát huy tính chủ động của các địa phương trong huy động nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.

Ba là, đa dạng nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để huy động vốn tư nhân, vốn hợp pháp khác tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, trong đó ưu tiên các nguồn lực để đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm, có vai trò động lực, lan toả, liên kết vùng, kết nối các cảng biển, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị. Kết hợp hiệu quả nguồn vốn Trung ương và địa phương với nguồn vốn huy động ngoài ngân sách.

Bốn là, các địa phương sớm hoàn thành quy hoạch tỉnh đảm bảo phù hợp, đồng bộ với các quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch vùng, khai thác có hiệu quả quỹ đất sau khi các dự án kết cấu hạ tầng giao thông được đầu tư; chỉ đạo quyết liệt công tác giải phóng mặt bằng và quản lý chặt chẽ hành lang an toàn giao thông.

Năm là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động vận tải, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, logistics, triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm an toàn giao thông; ứng dụng công nghệ trong tổ chức, điều hành giao thông, giảm ùn tắc tại khu vực ra vào đầu mối vận tải lớn (cảng biển, cảng hàng không)./.