QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Đổi mới mô hình hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam là sự thay đổi cách thức vận hành nền kinh tế theo chiều hướng tiến bộ. Đó là việc xác lập khung khổ chung, hay mô thức chung định hướng vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở tối ưu hóa các nguồn lực của đất nước với một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả, hiện đại, nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao theo hướng phát triển bền vững.

Chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế đã được Đảng nêu ra ở Đại hội lần thứ XI và được bổ sung phát triển ở các kỳ Đại hội XII và XIII. Trong đó, Đại hội lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Đổi mới mô hình tăng trưởng trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững” [2].

Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực hiện các quan điểm, đường lối đổi mới mô hình tăng trưởng, Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra các ưu điểm của đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam: “mô hình tăng trưởng dần chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều sâu, chất lượng tăng trưởng được nâng cao, giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, xuất khẩu thô, lao động nhân công giá rẻ, từng bước chuyển sang dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ, công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỉ trọng ngày càng cao, trong khi ngành khai khóang có xu hướng giảm... Cùng với việc cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược; năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế có bước cải thiện, bảo đảm hài hòa hơn giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường…”. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, thì Đại hội XIII chỉ ra những hạn chế, yếu kém, như: “hoàn thiện thể chế đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản về mô hình tăng trưởng; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao” [1]…

Trước thực tế đó, Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra định hướng và mục tiêu cho đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của đất nước: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Đồng thời, “Đổi mới mô hình tăng trưởng. Cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, bền vững” [1]. Đây là quan điểm mang tính định hướng chiến lược lâu dài của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA

Những kết quả đạt được

Trong giai đoạn 2011-2020, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt trung bình 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Trong đó, giai đoạn 2011-2015, tăng trưởng bình quân đạt 5,9%/năm; giai đoạn 2016-2019 đạt 6,8%/năm và năm 2020 vẫn đạt 2,91% dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19. GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên khoảng 2.750 USD năm 2020 [3].

Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết đại hội XIII của Đảng
Giai đoạn 2011-2020, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt trung bình 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Ảnh: Internet.

Không chỉ tăng về số lượng, mà chất lượng tăng trưởng cũng được cải thiện, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đạt khoảng 39%, vượt mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đề ra (35%); năng suất lao động giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân 5,8%/năm. Kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn; chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 18,6% năm 2011 xuống còn dưới 4% trong giai đoạn 2016-2020. Các cân đối lớn về ngân sách nhà nước, thương mại, đầu tư, năng lượng, an ninh lương thực tiếp tục được bảo đảm, cải thiện. Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của Việt Nam chính thức vượt mốc 500 tỷ USD trong năm 2019 và đạt trên 545 tỷ USD trong năm 2020. Xuất khẩu ghi nhận sự tăng trưởng mạnh về quy mô, từ 176,6 tỷ USD năm 2016 lên 282,7 tỷ USD năm 2020. Tăng trưởng xuất khẩu giai đoạn 2016-2020 đạt trung bình 11,9%/năm, cao hơn mục tiêu 10% do Đại hội XII đề ra. Huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển được đẩy mạnh; đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh; chất lượng, hiệu quả đầu tư được cải thiện. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng bình quân 10,6%/năm; đã thu hút được nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài quy mô lớn, công nghệ cao.

Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành chuyển biến tích cực. Tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP giảm từ 18,9% năm 2010 xuống còn 14,8% năm 2020. Việt Nam đã tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, giá trị gia tăng cao và bền vững; phát triển liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị và xây dựng được thương hiệu của một số nông sản chủ lực. Nhiều nhà máy chế biến nông sản, thực phẩm với công nghệ hiện đại được đưa vào hoạt động. Các hình thức kinh tế hợp tác và doanh nghiệp nông nghiệp tăng nhanh với khoảng 15.000 hợp tác xã nông nghiệp hoạt động hiệu quả và gần 12.000 doanh nghiệp trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và ứng dụng công nghệ cao trong các ngành, lĩnh vực ngày càng tăng; tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu qua chế biến trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 65% năm 2011 lên 85% năm 2020. Một số ngành, lĩnh vực dịch vụ ứng dụng công nghệ cao được đẩy mạnh và từng bước hiện đại hóa, như: công nghệ thông tin, truyền thông, thương mại điện tử, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khóan, y tế, hàng không... Ngành du lịch đã có bước phát triển rõ rệt và đạt được những kết quả quan trọng; số lượng khách quốc tế tăng từ 5 triệu lượt năm 2010 lên 18 triệu lượt năm 2019 [3].

Nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam đã có những dấu hiệu tích cực về chuyển dịch cơ cấu ngành và quá trình này đã đóng góp quan trọng vào nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2020.

Những hạn chế, yếu kém

Tuy đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế đặt ra đối với quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng của Việt Nam, thể hiện qua những khía cạnh sau:

(i) Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp; năng suất, chất lượng, hiệu quả nền kinh tế chưa cao. Hiện nay, đóng góp của TFP vào tăng trưởng của Việt Nam vẫn còn khá xa so với các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong giai đoạn tăng tốc phát triển, như: Nhật Bản là 129,6%, Hàn Quốc là 64,9%, Trung Quốc là 52,6%, Thái Lan là 53%. Đây cũng là hệ quả của việc tăng trưởng kinh tế còn dựa vào việc mở rộng quy mô vốn, sử dụng nguồn nhân công giá rẻ với tay nghề thấp và giá trị gia tăng trong hàng hóa xuất khẩu thấp [4].

(ii) Cơ cấu các thành phần, khu vực kinh tế còn nhiều bất cập. Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước có nhiều điểm nghẽn, hiệu quả chưa cao, vẫn xảy ra tình trạng thất thóat tài sản nhà nước qua cổ phần.

Ngành nông nghiệp chuyển dịch chưa tích cực, lợi thế của ngành nông nghiệp vẫn chủ yếu dựa vào lợi thế tự nhiên và sự cần cù của người lao động, vai trò và tác động của khoa học, công nghệ thấp. Công nghiệp chủ yếu là gia công, lắp ráp, dựa vào lao động giá rẻ, trình độ thấp. Công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển. Các ngành đóng góp cao vào tăng trưởng vẫn là những ngành truyền thống thuộc nhóm công nghệ thấp, như: chế biến thực phẩm, dệt may, da giày. Khu vực FDI có quy mô, tỷ trọng lớn, nhưng tồn tại như một khu vực biệt lập; sự gắn kết với các khu vực còn lại rất hạn chế, việc chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý tiên tiến không đạt yêu cầu.

(iii) Có tình trạng phát triển mất cân đối giữa các vùng, địa phương. Các đô thị lớn, như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh…, tăng trưởng mạnh, thu hút nhiều nguồn lực nên dẫn đến bị quá tải cả về kinh tế, xã hội, môi trường.

(iv) Các nền tảng, nguồn lực cho đổi mới mô hình tăng trưởng có nhiều điểm nghẽn: khoa học và công nghệ yếu, tính ứng dụng không cao, lệ thuộc vào bên ngoài; thể chế chưa tạo ra được các đột phá; nguồn nhân lực có trình độ thấp, già hóa dân số nhanh; tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt…

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Để nâng cao hiệu quả đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tác giả kiến nghị thực hiện các giải pháp sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế, tập trung hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách để các thị trường, nhất là thị trường các yếu tố đầu vào (đất đai, lao động, khoa học và công nghệ…). Tiếp tục ổn định và củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc; kiểm soát tốt lạm phát; bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước và nợ công theo hướng bảo đảm an toàn, bền vững; xử lý có hiệu quả nợ xấu của nền kinh tế gắn với cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, nhất là các tổ chức tín dụng yếu kém.

Hai là, tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược:

(1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khắc phục tư tưởng bao cấp, xin - cho, ỷ lại. Phát triển thị trường tài chính một cách cân bằng. Hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công, bảo đảm hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế. Có chính sách thu hút mạnh mẽ các nguồn lực trong xã hội. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện chất lượng môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư vốn. Khuyến khích và tạo thuận lợi, hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo, phát triển doanh nghiệp. Thu hút có chọn lọc các dự án đầu tư nước ngoài, tăng cường kết nối, phát huy sự lan toả với các khu vực kinh tế trong nước.

(2) Tiếp tục phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại. Đẩy mạnh thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công - tư, bảo đảm tính công khai, minh bạch; có cơ chế giám sát, quản lý và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư đối với từng dự án. Tập trung vốn đầu tư công và các nguồn vốn đầu tư khác để thực hiện một số dự án đầu tư hạ tầng trọng điểm và tại các vùng kinh tế trọng điểm. Sớm triển khai xây dựng một số khu hành chính - kinh tế đặc biệt; ưu tiên phát triển một số đô thị thông minh.

(3) Chú trọng phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng. Thực hiện tốt cơ chế, chính sách, pháp luật về phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ. Tạo chuyển biến nhanh và rõ nét trong phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế; nâng cao năng lực, trình độ quản lý nhà nước và quản trị doanh nghiệp. Đẩy mạnh xã hội hóa, giao quyền tự chủ cho các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề công lập; khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề.

Ba là, ưu tiên phát triển và chuyển giao khoa học - công nghệ, nhất là khoa học - công nghệ hiện đại, coi đây là yếu tố trọng yếu nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đẩy mạnh việc tiếp cận Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số nền kinh tế thông qua việc đẩy mạnh chuyển đổi số trong nền kinh tế, phát triển hạ tầng số, hoàn thiện thể chế cho phát triển kinh tế số, nhất là có các cơ chế, chính sách cho các mô hình kinh doanh mới. Nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ và đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp; khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, phát triển và chuyển giao khoa học - công nghệ.

Bốn là, đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể các ngành, lĩnh vực kinh tế trên phạm vi cả nước và từng địa phương, doanh nghiệp với tầm nhìn dài hạn, có lộ trình cụ thể; gắn kết chặt chẽ giữa cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế với cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực trọng tâm. Trong đó:

- Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, cơ cấu lại danh mục vốn đầu tư nhà nước trong các ngành, nghề. Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa, thóai vốn đầu tư của Nhà nước. Đổi mới quản trị doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng và thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ; kiên quyết xử lý các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, các dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả, hiệu quả thấp. Tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ việc vay nợ và sử dụng vốn vay.

- Cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là các tổ chức tín dụng. Tiếp tục lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao năng lực quản trị của các tổ chức tín dụng. Từng bước xử lý và xoá bỏ tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo; đẩy mạnh thóai vốn ngoài ngành của các ngân hàng thương mại. Ban hành các quy định hỗ trợ xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các tổ chức tín dụng; bố trí nguồn lực phù hợp để xử lý nhanh và dứt điểm nợ xấu. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát, quản trị rủi ro các tổ chức tín dụng. Tiếp tục cơ cấu lại các tổ chức tín dụng; xử lý nợ xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém.

- Tiếp tục cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công. Hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá xây dựng, suất đầu tư. Cơ cấu lại đầu tư công gắn với cơ cấu lại tài chính, ngân sách nhà nước và nợ công. Công khai, minh bạch thông tin và tăng cường giám sát đối với đầu tư công. Triển khai quyết liệt các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, thất thóat, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Tập trung tháo gỡ vấn đề chi ngân sách, nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài. Xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu với hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư.

- Đổi mới, cơ cấu lại khu vực sự nghiệp công lập. Thực hiện giao quyền tự chủ đầy đủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập. Khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát triển, cung cấp dịch vụ công; phát triển thị trường dịch vụ công có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập; giải thể các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động kém hiệu quả.

- Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học - công nghệ và các quy trình sản xuất tiên tiến vào sản xuất, hướng tới nền nông nghiệp sạch, công nghệ cao, thân thiện với môi trường; phát huy lợi thế so sánh. Tiếp tục đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp; phát triển các hình thức hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị. Phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Có chính sách phù hợp để phát triển và tiêu thụ các nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực, có lợi thế. Tiếp tục đầu tư phát triển, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; giảm nhẹ thiên tai; bảo vệ môi trường sinh thái.

- Cơ cấu lại một cách thực chất các ngành công nghiệp. Thực hiện chính sách công nghiệp quốc gia, tạo khuôn khổ chính sách đồng bộ, trọng tâm, đột phá. Tập trung vào những ngành công nghiệp nền tảng, có lợi thế cạnh tranh, có ý nghĩa chiến lược; lựa chọn sản phẩm chủ yếu để ưu tiên phát triển; phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, tăng hàm lượng công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm. Chú trọng phát triển công nghiệp sản xuất linh kiện, cụm linh kiện, thúc đẩy một số mặt hàng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị, phân phối toàn cầu.

- Thực hiện cơ cấu lại và phát triển nhanh các ngành dịch vụ, duy trì tốc độ tăng trưởng các ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ tiềm năng, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao. Thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển du lịch quốc gia.

Năm là, phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân cả về số lượng, chất lượng, thực sự là một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Thúc đẩy hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại để làm nòng cốt, mũi nhọn phát triển kinh tế, cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước, nâng cao sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển mạnh khu vực doanh nghiệp chính thức có đăng ký, giảm dần và thu hẹp quy mô kinh doanh phi chính thức. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giảm cơ bản gánh nặng chi phí đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa; đổi mới cách thức quản lý và thái độ làm việc của cán bộ, công chức theo hướng hỗ trợ và phục vụ doanh nghiệp; công khai, minh bạch, tăng cường kỷ luật, kỷ cương đối với cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước, xử lý nghiêm các tiêu cực, nhũng nhiễu.

Sáu là, đổi mới cách thức liên kết, phối hợp giữa các địa phương trong phát triển kinh tế vùng; thực hiện có hiệu quả quá trình đô thị hóa. Hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu lực thực thi các quy hoạch phát triển kinh tế vùng. Nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương và hình thành thể chế điều phối phát triển kinh tế theo vùng. Các địa phương trong vùng phối hợp xây dựng các đề án, phối hợp, liên kết phát triển kinh tế - xã hội, ban hành và thực hiện chính sách thu hút đầu tư, xúc tiến đầu tư, ưu tiên các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế. Thực hiện có hiệu quả quá trình đô thị hóa; kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị, hoàn thiện mô hình phát triển kinh tế đô thị, tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và phương thức quản lý của chính quyền đô thị./.

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật

3. Tổng cục Thống kê (2011-2020). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội các năm, từ năm 2011 đến năm 2020

4. Nguyễn Thị Thu Trang (2021). Làm gì để nâng cao năng suất lao động và đóng góp TFP đối với tăng trưởng kinh tế?, truy cập từ https://nhadautu.vn/lam-gi-de-nang-cao-nang-suat-lao-dongva-dong-gop-tfp-doi-voi-tang-truong-kinh-te-d57022.html

ThS. Vũ Lê Tùng Giang

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

(Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 29 năm 2021)